“Những nỗi hốt hoảng của cậu học sinh Törless”: Căn bậc hai của bóng âm

Viết, phải chăng cũng là bình phương của một con số ảo, đưa tay vào hư vô để lấy ra một cái gì tròn đầy và có thực?

Một ấn bản “Die Verwirrungen des Zöglings Törless”.

Khi khai một số âm, như -1, ta sẽ bắt gặp sinh vật ấy, sinh vật mà toán học gia Gottfried Wilhelm Leibniz từng gọi là “nơi trú ẩn tuyệt diệu và tinh tế của thánh linh, gần như là một sinh vật lưỡng cư nằm giữa tồn tại và phi tồn tại”. Sinh vật đó: số ảo. Số ảo, đương nhiên là số không có thật. Nhưng làm sao lại cần đến một thứ không hề có thật? Làm sao những thứ không có thật đó lại có ích và có những ứng dụng hữu hình? Trong một phân đoạn ở giữa cuốn tiểu thuyết đầu tay viết “vì buồn chán” trước thời kỳ Thế Chiến I của Robert Musil (1880-1942), tiểu thuyết gia người Áo, Die Verwirrungen des Zöglings Törless (bản tiếng Việt: Những nỗi hốt hoảng của cậu học sinh Törless, Phan Nhu dịch từ nguyên tác), cậu học trò Törless thắc mắc với thầy giáo dạy toán của mình. Cậu nghĩ về nó như một hồn ma, người mà ta sẽ mang chiếc ghế anh ta thường ngồi đến đợi anh ta xuất hiện, kể cả khi ta biết anh đã chết.

Thắc mắc toán học ấy, nằm gần như chính giữa trung điểm hình học về mặt vật lý của cuốn sách này, như bàn thờ chính được đặt ở nơi trang nghiêm nhất của thánh đường. Sự hoang mang của cậu học sinh một ngôi trường nội trú nam sinh ở Áo những năm đầu thế kỷ 20 trước cái cách những khái niệm huyền ảo của toán học bắc cầu vào thế giới hiện thực cũng đồng dạng với một nỗi hoang mang khác của cậu ở ngưỡng tuổi giao thời: làm thế nào một con người rất bình thường lại phạm vào tội lỗi, làm sao anh ta có thể chấp nhận những hình phạt ô nhục nhất? Luân lý nào, lý trí nào đã dẫn đường cho anh ta làm thế? Hay đơn giản mọi điều anh ta làm nằm ngoài phạm vi của ý thức và quyền tự chủ, như Musil từng viết trong một tiểu luận:

“Tôi chưa bao giờ bắt gặp mình hành động một cách có ý chí. Luôn luôn là như vậy, tôi chỉ thấy ý nghĩ. Ví dụ, khi tôi đang nằm nghiêng về một bên trên giường: giờ mình nên trở người sang bên kia. Ý nghĩ này cứ tiếp tục tiến lên, ngang hàng với một loạt các ý nghĩ khác: chẳng hạn, chân bạn bắt đầu tê, gối thì nóng lên, v.v. Đó vẫn là một hành vi suy tưởng đúng nghĩa; nhưng nó vẫn còn cách xa hành động thực sự. Trái lại, tôi xác nhận — trong một nỗi ngạc nhiên pha chút hoang mang — rằng, bất chấp những ý nghĩ ấy, tôi vẫn chưa trở người.” Và ông chỉ trở người, “trong khoảnh khắc thiếu đề phòng”.

Die Verwirrungen des Zöglings Törless bắt đầu bằng một phong cảnh không lấy gì làm đặc sắc: trên nhà ga, cha mẹ Törless tiễn đứa con trai nhập học ở một ngôi trường nội trú Công giáo ở chốn xa xôi, nơi những gia đình cao quý gửi con em tới. Nhưng chỉ một lát thôi, ngay sau đấy, cuốn sách liền đi vào một vùng khó nắm bắt và cũng chẳng hiện hữu, hệt như căn bậc hai của một số âm: những suy nghĩ trong đầu Törless. Suy nghĩ đầu tiên của cậu đã có động cơ của một cỗ máy ảo: cậu nhớ nhà khủng khiếp và ngày ngày đều viết thư, mọi điều khác cậu làm trong ngày đều xám xít buồn chán, là “các sự cố không đâu, phi thực, vài cái mốc nào đó, giống như những con số chỉ giờ trên mặt đồng hồ”, nhưng tất cả những điều đó khi biến thành thư từ lại khiến cho cậu cảm tưởng như bản thân đã hóa thành “hòn đảo đầy màu sắc, những mặt trời tuyệt diệu”.

Viết, phải chăng cũng là bình phương của một con số ảo, đưa tay vào hư vô để lấy ra một cái gì tròn đầy và có thực?

Ở trường, Törless cùng hai người bạn học Reiting, Beineberg vô tình biết được một bạn cùng lớp khác là Basini đã ăn cắp tiền. Nắm thóp Basini, Reiting và Beineberg dẫn cậu ta lên một căn phòng gác mái bí mật, nơi chúng lấy Basini làm đối tượng hành hạ — Törless là người chứng kiến toàn bộ sự kiện bạo lực ấy. Beineberg, chân dung một độc tài phát xít thời cún con (mặc dù Đảng Quốc Xã ra đời năm 1920; còn cuốn tiểu thuyết của Musil xuất bản từ năm 1906) không hành hạ bạn chỉ để mà hành hạ. Có lẽ đúng hơn là cậu ta đang làm một bài tu tập tôn giáo – đi tìm bản thể tinh thần tối cáo của mình, một bản thể nối liền với vũ trụ, một bản thể nằm ngoài tính nhị nguyên của niềm vui hay khổ đau, căm ghét hay thương xót; một dạng triệt bỏ những ham muốn với thế gian này, dù là ham muốn cái tốt. Cậu ta so sánh nó với những bài tu khổ hạnh của các giáo sĩ Hindu. Cậu ta muốn nằm ngoài cả thiện / ác.

“Die Verwirrungen des Zöglings Törless” đã được chuyển thể thành kịch.

Một đầu thừng là như vậy, ở đầu bên kia, Basini — nạn nhân tra tấn — lại tuân phục tuyệt đối những hình phạt ngày càng leo thang và phi nhân của những kẻ đáng ra chỉ bình đẳng với cậu ta. Sự ô uế là một dòng cát lún mà người ta một khi đã mắc vào thì sẽ chỉ ngày càng lún sâu hơn, lún sâu hơn nữa, không có giới hạn cho sự lăng nhục mà một con người có thể chấp nhận lên thân thể mình. Cậu ta là nạn nhân nhưng dường như cũng là đồng loã cho tội ác tàn phá mình. Vậy thì tất cả những điều đó đến từ đâu? Nỗi sợ hãi đớn hèn của Basini và sự hung bạo tự huyễn của Beineberg và Reiting?

Kundera, trong một bài phỏng vấn trên The Paris Review, không tiếc lời ngợi ca Robert Musil là một trong hai tiểu thuyết gia đặt trọng trách lớn lao lên tiểu thuyết (cùng Broch): “…xem nó như là hình thức tổng hợp trí tuệ tối cao, là nơi cuối cùng con người vẫn còn có thể đặt câu hỏi về thế giới như một tổng thể. Họ tin rằng tiểu thuyết có sức mạnh tổng hợp phi thường, rằng nó có thể bao gồm thơ ca, tưởng tượng, triết học, cách ngôn, và tiểu luận, tất cả hòa quyện trong một.”

Câu hỏi về thế giới như một tổng thể. Ít nhất trong khuôn khổ của cuốn tiểu thuyết này, ta sẽ thấy nỗi sợ hãi của Basini, sự hung bạo của đám bạn bè, thật kỳ lạ là chúng dường như lại gặp gỡ với câu hỏi về những con số ảo — những thứ mà một mặt ta không thể nào hình dung được, ta không thể biết tại sao lại có nó trên đời; một mặt khác, ta không thể phủ nhận sự tồn tại ngang nhiên, nham hiểm đó. Hay nói như Törless, vạn vật đều có nhân đôi cuộc sống — “một cuộc sống thứ hai, một cuộc sống bí mật, không thể nhìn thấy, tất cả các vật” — cái phần ấy, không phải là bóng âm (vì bóng âm, hay cái bất thiện, bất toàn, cũng như những số âm, vẫn là cái nhìn thấy được và hiểu được), mà là căn bậc hai của bóng âm, nghĩa là khi ta gắng chia tách nó, tìm đường dây của nó, tổn thương nào, vực sâu nào, biến dạng thần kinh nào, hay khuyết tật bào quan nào đã tạo ra nó, thì ta không thể thực sự tưởng tượng ra.

Nhưng, nói đến thế thì một câu hỏi nữa sẽ nảy ra. Một thứ mà ta không thể tưởng tượng, phải chăng bởi vì thứ ấy là hiện thân của Chúa? Nên nhớ rằng vị thầy thần học đã rất muốn nhận lại Törless sau khi nghe những diễn giải của cậu về những gì “không thể đo lường theo lối lý tính”. Ta nhớ Sách Job 11:7 “Ngươi có thể khám phá sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời chăng? Có thể dò tận sự toàn năng của Đấng Toàn Năng chăng?” Còn St.Augustine: “Nếu ngươi hiểu được nó thì nó chẳng phải là Chúa.” Những con số ảo trong toán học, căn nguyên của bóng âm trong linh hồn của con người, có khi nào chúng cũng là bằng chứng cho sự có mặt của một thứ cao hơn chúng ta, không thể hiểu được, như những hình phạt Chúa giáng vào ông Job như một thí nghiệm về lòng ngoan đạo? Phải chăng tội lỗi của một con người không phải là thực thi điều ác vô cớ, mà tội ác của con người là cố gắng bắt chước Chúa và cố gắng vươn tới quyền lực của Chúa?

Một cách tình cờ, tôi đọc cuốn sách này song song với Tuyết xuân của Yukio Mishima (nguyên tác: 春の雪, Haru no Yuki, bản dịch của dịch giả Trần Tiễn Cao Đăng). Tuyết xuân lấy bối cảnh Nhật Bản những năm đầu thế kỷ 20. Tiểu thuyết cũng có những nam sinh tầng lớp vương hầu công tử, cũng có những bí mật, cũng vần xoay quanh những ý niệm và cái ác và cái đẹp. Trong khi đọc Tuyết xuân, có một nhân vật đã lý giải vì sao những con người trong thời đại của anh lại lao như thiêu thân vào những hiểm nguy ái tình liều mạng: “Ngày nay, thanh niên trai tráng tuyệt nhiên không còn cơ hội ra xa trường và tử trận. Nhưng sau khi các cuộc chiến tranh quân sự đã kết thúc, thì thay vào đó, giờ đây một kỷ nguyên mới với những cuộc chiến cảm xúc lại bắt đầu… Tôi nghĩ, cũng giống như trên chiến trường lửa đạn, đương nhiên những người trẻ tuổi cũng sẽ tử trận trên chiến trường cảm xúc này. Đó có lẽ là định mệnh của thời đại chúng ta…” Nhật Bản, không lâu sau đó, cũng dần phát xít hoá.

Nhắc đến chuyện này bởi Đế quốc Áo – Hung trước khi nổ ra Thế Chiến I — hay chính là thế giới thuộc bối cảnh bên ngoài ngôi trường nội trú trong tiểu thuyết của Musil, theo hồi ký của Stefan Zweig trước khi tự sát, được mô tả là “thời đại vàng son của sự yên bình”, với “niềm tin cảm động rằng mình có những hàng rào không một khe hở khiến không một vận rủi nào có thể chui vào” và “thành thực tin rằng nó đang đi trên con đường thẳng nhất dẫn tới thế giới tốt đẹp nhất có thể có”. Có thể con người không thể chịu được sự yên bình. Con người không thể chịu được việc tạo nên thế giới tốt đẹp nhất có thể có, nên buộc phải phá tan nó ngay trước khi nó có nguy cơ thành hiện thực. Bởi vì nói như Dostoevsky thì con người đâu phải phím đàn piano. Con người không thể chịu được ý nghĩ rằng mình sẽ mãi xinh đẹp và trong trắng. Con người sẽ mơ đến những điều cao cả nhất và rồi nhận ra rằng, có khi, đó là điều y không thật sự truy cầu.

* Bài đăng Tia Sáng số 15/2025

Tác giả

(Visited 254 times, 15 visits today)