Phủ Quốc
Tôi sống ở xã Cấn Hữu, Quốc Oai, Hà Tây trong hai năm sơ tán 1966, 1967, trở lại Quốc Oai trong năm 1972, từ đó thi thoảng đi qua mà thôi. Tôi không hình dung được cảnh vật xưa đã thay đổi như thế nào, chắc chắn nó thay đổi, như biết bao vùng miền mà tôi từng qua, nhưng nơi này giống như quê hương thứ hai, nơi hình thành cái gốc rễ văn hóa cổ trong tôi không bao giờ thay đổi.
Tập tục đa thê trong làng vẫn còn phổ biến, tất nhiên là di sản của xã hội cũ. Thoạt tiên, tôi sống trong một gia đình chủ nhà có hai vợ. Hai bà vợ ở hai căn nhà tách biệt cách nhau khoảng sân rộng, người chồng sinh hoạt với cô vợ bé nhiều hơn. Chị em tôi ở nhà bà vợ cả. Chuyện đánh ghen cũng thi thoảng xảy ra và cảnh tượng giống y như bức tranh dân gian Đánh ghen Đông Hồ. Lũ trẻ con gọi hai bà vợ này là mẹ già và mẹ dì. Khi mất con gà, bà mẹ già này chửi như một bài hát có vần điệu. Bài chửi được hướng tới nhà hàng xóm mà bà nghi ngờ: Con gà ở nhà tao là con công con phượng, sang nhà mày là con cú con quạ. Cờ xanh cắm ngõ, cờ đỏ cắm nhà, bắt lấy tên, biên lấy tuổi, lên trình Nam tào, sao Bắc đẩu… Bài ca này dài lắm, không thể nhớ hết, véo von trong hai hôm liền, thì con gà bỗng trở về chuồng cũ. Đêm ấy con lợn sề của gia chủ đẻ liền 20 con, lợn mẹ chỉ có 12 vú, nên ông chủ quyết định loại tám con yếu, đem cho các bác sơ tán làm thịt. Bấy lâu mấy vị sơ tán chỉ có cơm độn sắn, rau còn thiếu, huống chi thịt, nên mở một bữa đại tiệc. Họ dúi cả tám con lợn sữa còn chưa mở mắt vào sô nước, cắt từng con thành lát mỏng kể cả gan ruột, rồi cho vào chảo mỡ sôi. Bữa tiệc kéo đến nửa đêm, râm ran tin thời sự chống Mỹ. Nhưng đối với tôi việc này kinh khủng quá, cứ nhìn thấy thịt là thấy ghê ghê.
Một thời gian thì chúng tôi chuyển sang gia đình khác. Bà chủ nhà mới nom như một người Mường, bà cạo đầu trọc, mặc áo ngắn, váy dài, quấn ruột tượng xanh quanh cạp váy. Bà bị phong thấp nên đêm thường rên hừ hừ, nhiều khi đau quá khóc i ỉ. Tôi cũng ít ngủ, thường ra động viên bà và đọc Kiều cho bà nghe. Thực ra tôi cũng chỉ thuộc Kiều lõm bõm và gặp ngay một cao thủ, bà nhắc liền những đoạn tôi không thuộc. Và từ đó hằng đêm bà ngâm liên miên các chuyện thơ Trương Chi, Nhị độ mai, Phan Trần, Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa. Người thầy văn chương của tôi thời thơ ấu hóa ra là một người hoàn toàn mù chữ. Nhưng đối với tôi, bà giống như một bảo tàng dân tộc học sống động, từ y phục, cách ăn ở, đến những hiểu biết về ca dao dân ca.
Cấn Hữu là một xã gồm ba làng Cấn Thượng, Cấn Trung và Cấn Hạ nằm ven con đê, cũng là con đường, nối từ huyện lỵ Quốc Oai chạy sang đường số 6. Đi về phía Tây, có thể vào chân núi Ba Vì cao ngất. Người dân Cấn Hữu thường vào núi hái củi. Công việc này rất vất vả, một thanh niên khỏe mạnh, dậy rõ sớm đi chừng 25 km mới đến nơi kiếm củi, mang theo mo cơm, hái xong bó củi sậy, rồi gánh về đến làng là vừa tối. Chiến tranh, thanh niên khỏe đi hết. Thi thoảng anh tôi từ đại học về, vào núi lấy củi cho chúng tôi. Không thì phải mua cũng đắt. Có lần tôi đi vào núi chơi, thoạt tiên qua một dòng sông nhỏ, có cầu tre cao lênh khênh, đến một rừng tùng yên lặng như thời thái cổ. Đi chừng 20 km, thì gặp những bản Mường nhỏ với mươi nóc nhà sàn nằm giữa những rừng mơ không khí trong xanh như ngọc. Một bà cán bộ Mường hỏi han rất kỹ, rồi dẫn tôi về nhà nấu cơm cho ăn, bà lấy cá khô gần như đã mục ở một chum sành, chưng lên, ăn với cơm trắng vô cùng ngon, sau đó thì được tráng miệng bằng một đĩa mơ xanh. Tôi thấy người Mường dáng thanh thoát, bận váy rất cao, áo thì rất ngắn, đầu vấn khăn, những bà già thường đeo một giỏ trầu chính giữa đít. Từ đó hễ có cơ hội, tôi thường đến chơi bản Muờng. Dân làng Cấn lại bận những chiếc váy vuông đen, chít khăn mỏ quạ, và áo cánh nâu. Đi xa thì đội nón thúng, mưa lạnh thì khoác áo tơi và cầm theo bùi nhùi. Sau này tôi thường vẽ những người phụ nữ nông thôn theo trí nhớ như vậy.
Con đường xuyên qua ba làng rất nhiều đền đình chùa. Một cái miếu ven đường, mái rất thấp đến nỗi chúng tôi thường đứng ở rệ đê, rút ngói, đẽo cái chơi đáo. Chỉ một thời gian ngắn, mái miếu hở hoác ra, tôi cũng thấy lo lo, bèn nói với một người lớn trong làng, ông đáp: Cứ tiếp tục đánh đáo. Nay mai cũng phải dỡ cái của mê tín dị đoan ấy đi. Tối về tôi kể với bà chủ nhà, bà rền lên: Phải tội chết cháu ạ. Cha tôi và ông chủ nằm nói chuyện về sấm Trạng Trình. Hình như câu chuyện hướng đến sự phá hoại của chúng tôi. Nguyễn Công Trứ không tin vào mê tín, bèn phá đền thờ Trạng Trình. Phá đến hậu cung bỗng hiện ra tấm bia đề: Minh Mệnh thập tứ/ Thượng Trứ phá đền/ Phá đền rồi lại làm đền/ Nào ai cướp nước tranh quyền của ai. Một chuyện khác: Trạng Trình sắp mất bèn để cho con cháu một phong thư, dặn khi nào đói nghèo thì mang thư lại quan phủ. Con cháu ông nghèo thật bèn đến quan, viên quan đang nằm nghe nói có thư của Trạng Trình rất ngạc nhiên vì trạng đã chết từ lâu sao còn thư từ được, ông bèn ra ngoài, vừa bước đi cái xà nhà bỗng sập xuống, quan thoát chết. Mở phong thư chỉ có hai câu rằng: Ngã cứu nhĩ thượng lương chi ách/ Nhĩ cứu ngã tử tôn chi bần– Ta cứu ngươi khỏi ách xà nhà/ Vậy ngươi hãy cứu sự đói nghèo của con cháu ta. Cha tôi bảo có câu sấm này theo trò chơi ô ăn quan của trẻ con: Hết quan, tàn dân, thu quân, bán đất, hiện mới đúng một nửa, chẳng biết nửa sau thế nào. Đêm nào cũng vậy, tâm hồn thơ dại của tôi ngày một đầy ắp những chuyện nửa hoang đường, nửa nhân tình thế thái ngày xưa.
Hôm sau, một đoàn bộ đội ghé qua làng. Một chú bộ đội, có lẽ chỉ gấp đôi tuổi tôi, mắc võng giữa hai cành bưởi, thấy tôi bèn mời lên ngồi cùng võng. Không ngờ tôi khá nặng, cành bưởi gẫy toác. Ngay tối hôm đó ông đại đội trưởng, cùng người lính trẻ đến chủ nhà xin lỗi. Bà chủ cứ đứng khóc sụt sịt, làm ông lính già luống cuống, quát nhặng tay lính trẻ của mình. Bà chủ bèn nói: Tôi có tiếc cây bưởi đâu, tôi thương mấy anh mặt mũi non trẻ thế kia vào nơi bom đạn có về được không. Trong tâm trí tôi, những anh lính lúc đó thật hào sảng.
Lớp học của tôi nằm trong một ngôi đền nhỏ, kề liền đình làng, phía trước là sân đình rất rộng, phía sau là vườn cây. Thầy giáo tôi thường cuốc và tưới rau xong, đập chân mấy cái, rồi mới rút quyển sách từ cạp quần ra dạy học. Khi thầy mải tăng gia thì chúng tôi chỉ được học rất ít. Chữ đực chữ cái, tôi thường nán lại xem ông thủ từ viết chữ Nho. Ông dạy tôi bện chổi và bện vài cái chổi nhỏ, sách xô nước ra sân đình tập viết chữ bằng chổi. Tôi không hiểu nghĩa chữ, nhưng thuộc mặt chữ khá nhanh và viết bằng chổi khá tốt, nên ông thủ từ rất quý. Tôi bèn mò đi đình chùa khắp ba làng xem chữ Nho. Ở làng Cấn Trung có ngôi đình liền chùa, gọi là tiền đình hậu tự. Đình có sàn gỗ, nên chùa cũng có sàn như một sân khấu. Bọn trẻ con bảo trong chùa có ông nhịn ăn để mặc, và ông nhịn mặc để ăn, sau này mới biết đó là tượng Phật Tuyết Sơn và Di Lặc. Chúng tôi thường xỏ vào những đôi hia gỗ, rút đao kiếm từ giá hộ bộ ra choảng nhau, làm gẫy khá nhiều đồ thờ. Về sau đi nghiên cứu đình chùa tôi không còn thấy ngôi đình liền chùa nào đẹp như vậy.
Giữa đồng Bương Cấn có một ngôi miếu hoang nằm chơ vơ. Trẻ chăn trâu thường thả trâu, rồi tụ ở đó đánh đáo, chúng thách tôi ném vỡ ông mặt nhật đỏ rực có đôi rồng chầu mà không bị thánh vật. Tôi vừa lia lên đó một hòn gạch, bỗng trên trời một đàn máy bay bay tới quần thảo. Lũ trẻ nằm nép vào bờ ruộng giữa cánh đồng, nhìn lên trời bốn năm chiếc F4 và hai chiếc Mic17 đang rượt nhau. Cảnh tượng thật là ngoạn mục. Chiếc Mic17 cắt thùng dầu phụ, giống như quả bom lao xuống đất, nổ tóe lửa dữ dội. Đàn trâu hoảng sợ lồng lên trên cánh đồng, chúng phi ào ào qua người chúng tôi. Đám dân quân nấp trong bụi tre tưởng chúng tôi không bị thương cũng bị trâu xéo, bèn chạy ra, nhưng không ai làm sao. Hôm đó một máy bay Mỹ rơi, viên phi công bị bắt ngay làng gần đó, và giam ở chợ giữa các làng. Sáng sớm hôm sau chúng tôi tụ tập đi xem phi công Mỹ. Hàng ngàn người hua đòn gánh reo hò, đòi dân quân dẫn tên phi công Mỹ ra. Tên này hoảng sợ, người rất cao to và mặc chiếc áo liền quần. Một bà già lao thẳng vào hắn, nếu không có người dân quân chắc tên phi công đã ăn mấy đòn gánh. Một lúc sau có xe của nhà nước đến chở đi.
Chị tôi chuyển lên trường cấp ba Quốc Oai học, tôi đi theo và trọ ngay sau động Hoàng Xá. Thầy giáo tôi rất dữ đòn, học sinh không thuộc bài thầy lập tức rút song cửa sổ quất ba roi. Tôi mới đi học một tuần đã thấy cửa sổ gần bàn thầy không còn cái song nào, do đó ai học cũng tốt. Học sinh vùng này chơi nhảy ngựa hằng ngày, trò chơi cũng nguy hiểm, chia làm hai bè nam nữ lẫn lộn, một bè ôm đít nhau làm ngựa, một bè nhảy, rồi cùng ngã lăn chiêng ra đất. Tôi bị gẫy tay ngay lần chơi đầu tiên. Bà lang trong làng bó lá gì đó cho tôi, và bắt tập đi hằng ngày, tay đau vô cùng, nhưng ghê nhất bà bắt uống hai bát nước cua sống mỗi ngày. Nước cua giã lờm lợm, tanh tanh, mằn mặn, chỉ chực nôn ọe. Nhưng kết quả thật bất ngờ, hết năm 1967, tôi cao to hẳn lên, quần áo thành ngắn cũn. Tôi nghe nói đồng bằng phủ Quốc có 99 quả núi đá, giống như 99 con voi chầu về một hướng, còn một quả chạy về hướng khác. Người xưa không coi cái gì là toàn thiện, chín là số trời rồi. Quanh Sài Sơn hình như có 16 quả, còn những quả ở xa đến tận núi Tử Trầm. Tôi leo lên đỉnh núi Thầy, đếm núi, nhưng chẳng thể đếm chính xác, bèn đi từng quả một. Tôi đi được chừng mươi quả, thấy hầu hết trên núi đều có đền chùa. Núi này chỉ có một phương đình chơ vơ trên tận đỉnh, hóng gió bốn phương. Núi kia là cả một hệ thống đền chùa, có tam quan chân núi, điện Phật lưng chừng ẩn sau lùm cây và hậu đường trong một khe động. Núi nào cũng có suối nhỏ, am động, lên xuống ngoắt ngéo, kỳ thú vô cùng. Lớp học của chị tôi nằm trong một am nhỏ trên một quả núi gần đê rất thanh tịnh. Sau này, các quả núi dần bị nung vôi, không biết đến nay còn bao nhiêu. Tôi để ý các quả núi bị đánh hết đều không có chân, đào sâu một hai mét là hết sạch, như vậy các núi đá Sài Sơn giống như được giời quẳng đến trong một cuộc khai thiên lập địa nào đó.
Thời gian sau, chúng tôi lại chuyển về làng Ngọc Than cách huyện lỵ chừng 2km. Tôi còn nhớ rõ chữ Ngọc Than Môn ghi rất ngay ngắn ở cổng làng, nhớ đình Ngọc Than to không kém gì đình Bảng, có sàn cao và mái cong duyên dáng. Làng Ngọc Than rất đẹp và văn minh hiếm có ở Bắc Bộ. Mùa thu, chị tôi mua cho tôi những con rối đung đưa, bằng giấy hình các quan tướng ngày xưa ở chợ Quốc Oai. Đây có nghề làm hàng mã tinh khéo sau này không thấy nữa. Từ Ngọc Than, tôi theo con đường đất đỏ lần mò lên Thạch Thất. Con đường này rất bẩn, mùa hè thì bụi mù, mùa đông thì lầy lội, đi mất ba tiếng mới đến chùa Tây Phương. Mọi người lúc đó phần nhiều đi đất, vì không thể đi dép trên con đường này được. Mùa đông, đi vài giờ các ngón chân lạnh cóng không còn cảm giác gì. Nhà nông chế ra loại dép cao su chỉ có một quai nhỏ xỏ một ngón chân, và một quai lớn giữ bàn chân. Một bà cụ nhờ tôi dắt lên núi, rồi cho tôi ăn khoai, bà dặn lên chùa xem nhưng chớ trèo leo nghịch tượng. Lúc đó tôi cũng chưa biết xem tượng, tôi thấy các chùa tượng đều giống nhau, nhưng cũng thấy tượng Phật chùa Tây Phương vừa to vừa giống người đời. Tôi ngồi trên núi Câu Lậu nhìn mái cong hai tầng như cái đuôi phượng. Cơ quan cha tôi chuyển về Quảng Oai, nên tôi cũng có dịp theo con đường đất đỏ này đến đình Tây Đằng và chùa Mía cổ kính. Tất cả chỉ là tò mò, vì tôi thích những nơi lạ, vắng vẻ, lại đẹp. Đình chùa lúc đó rất hoang vu, tha hồ lấy thứ gì mình muốn và đập phá, dần dần biến thành kho để phân đạm và thóc, nơi cho dân sơ tán ở, nơi thành xưởng thủ công, nơi thành lớp học. Tôi chưa biết từ văn hóa, nhưng có cảm giác lờ mờ về một đời sống xa xưa đang bị thoải mái hủy hoại.
Năm 1972, tôi quay lại học cấp 3 Quốc Oai, lớp học nằm ở xã Liệp Tuyết. Bắt đầu ở tuổi phải đi gánh nước, tôi để ý đến cái giếng làng. Có giếng khơi cho cả làng tắm giặt và có giếng rất sâu chuyên để lấy nước ăn. Chiều đến cả làng, nam phụ lão ấu ra giếng khơi tắm giặt chuyện trò râm ran và những cô gái thon thả đung đưa cái đòn gánh với hai thùng nước từ giếng sâu về nhà. Giếng khơi hình tròn có tường bao xung quanh, và mở hai lối xuống, cho một bên nam một bên nữ, trên lối là nhà tắm nhỏ, nhưng đàn ông thường cứ tắm ngay thành giếng. Làng quê quả thực là một môi sinh văn hóa, dường như chứa đựng đầy đủ cái gì đó gọi là Việt Nam. Tôi không hề ý thức rằng chỉ hai năm lên chín, lên mười tôi đã được học xong một trường đại học mà nền tảng kiến thức để dùng đến tận bây giờ, mà tất cả những năm tháng đi học sau đó chỉ giống như đổ nước lã xuống sông mà thôi. Từ đấy, tôi không quay về làng quê này nữa, trừ thỉnh thoảng đi nghiên cứu chùa Thầy và chùa Tây Phương. Tôi không biết huyện Quốc Oai đã đổi thay thế nào, những người thầy của tôi ai còn ai mất, và cả những gia đình nông dân đã từng đùm bọc những người dân sơ tán chúng tôi, những bạn bè thủa thơ ấu ra sao? Tôi giữ lại toàn là hình ảnh của hơn 40 năm trước, để thấy rằng Phủ Quốc như một đất nước thu nhỏ, trong một Việt Nam. Ở đấy có sông có núi, đồng ruộng tươi tốt kề bên nương dâu bãi mía, có những mái đình duyên dáng, những ngôi chùa thâm nghiêm, những tập tục ngàn đời và những người nông dân thật chất phác, nhân hậu.