Quan điểm văn học – vài trao đổi cần thiết

Nhà thơ Inrasara trao đổi về một số quan điểm văn học đang phổ biến trên báo chí hiện nay mà ông cho rằng có thể gây hiểu sai, hiểu lầm.

Yếu tố và chủ nghĩa

Tại sao cứ phải chủ nghĩa này với trường phái nọ, không có chúng không được sao? Nếu bảo giễu nhại là hậu hiện đại thì Hồ Xuân Hương hay Tú Xương, thậm chí gần đây thơ Bút Tre đã hậu hiện đại lâu rồi…(1)

Đó là phát biểu thường gặp đây đó. Nhưng có tính hậu hiện đại khác hẳn với chủ nghĩa hậu hiện đại. Hậu hiện đại là một trào lưu văn hóa lớn tác động đến nhiều mặt của xã hội. Nó khác với các phong trào văn nghệ thuần túy như trào lưu siêu thực hay tượng trưng chẳng hạn. Ngay ở các phong trào này thôi, sự xuất hiện một, hai yếu tố trong tác phẩm nào đó không đảm bảo tác phẩm đó được viết theo trào lưu đó. Có thể tìm thấy trong Truyện Kiều không ít yếu tố hiện thực huyền ảo, siêu thực, tượng trưng, lãng mạn… nhưng Nguyễn Du không sáng tác theo các trường phái kia.

Một nhà văn hậu hiện đại cần có “cảm thức” hậu hiện đại, nhìn hiện thực bằng con mắt hậu hiện đại, “hành động” hậu hiện đại, từ đó vận dụng nhuần nhuyễn [và sáng tạo] nhiều thủ pháp hậu hiện đại trong các sáng tác của mình.

Việt Nam thiếu truyền thống triết học, chưa thói quen “đẻ” ra trường phái văn nghệ mới, tiếp thu của thiên hạ là điều cần thiết. Trào lưu, chủ nghĩa hay nhóm văn học các loại không là gì cả, nếu chúng không làm nên giá trị, nhiều người nghĩ thế – không sai. Thế nhưng, cho dù không làm nên thành tựu, chính sự có mặt của chúng khả năng khuấy động đời sống văn học, sẵn sàng cho một nền văn học đầy ý thức phiêu lưu khai phá và sáng tạo.

Thơ hay là thơ gây xúc động

Vô chiêu thắng hữu chiêu. Cần gì phải theo khuynh hướng nào đó, thơ hay đọc lên thấy hay ngay vì nó gây cho ta xúc động.

Phát ngôn đầy cảm tính này xuất hiện thường xuyên trên các trang báo. Câu hỏi: thế nào là xúc động? Các bài thơ của TTKh. đã lấy được nước mắt bao nhiêu người thời Tiền chiến, nay còn có thể không? Ai dám bảo một phát ngôn tưởng khô cằn “Je est l’autre” của thần đồng thơ đất Pháp A. Rimbaud không làm xúc động lòng người?

Thời đại khác, thơ khác, cách đọc thơ cũng phải khác. Không thể trách, khi Huỳnh Thúc Kháng phản đối quyết liệt thơ Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, bởi ngay người cùng thời như Xuân Diệu, Tố Hữu cũng đâu chấp nhận thơ tự do không vần của Nguyễn Đình Thi. Trần Mạnh Hảo cách Nguyễn Quang Thiều không bao xa nhưng đã không chịu được thơ Nguyễn Quang Thiều. Nhiều thơ tài năng Việt Nam cùng thế hệ không cho thơ Đinh Linh, Bùi Chát là thơ, chứ đừng nói là thơ hay.

Họ là trí thức đồng thời là cây bút hàng đầu, tại sao? Không phải ở hay hay dở, mà chính bởi sự khác biệt thuộc phạm trù mĩ học sáng tạo.

Và, thế nào là hay? Có ba loại nhà thơ: Người làm vần để phục vụ đại chúng, gồm các nhà thơ phường xã, câu lạc bộ thơ hưu trí, thơ báo tường,… Nhà thơ “tiếp hiện” ở tư thế “tiếp hiện” các thành tựu gần, sáng tác vừa với tầm mong đợi của đại đa số độc giả đương thời và Kẻ sáng tạo luôn trên đường khám phá, thay đổi và làm mới. Họ sẵn sàng làm mếch lòng độc giả đã từng yêu mến họ, bởi họ dám thay đổi cách viết, thay đổi cả mĩ học sáng tạo.
Cả ba loại trên, nếu có “tài”, họ đều “hay” cả, “hay” trong chính dòng mình.

Ba dòng thơ kia chẳng những không chết mà tồn tại đồng thời, vì cả ba đều có ích cho bộ phận độc giả nhất định. Chúng có mặt là điều cần thiết. Còn nếu ba nhà thơ thuộc ba loại này quay lại chống nhau, thì đó mới thành vấn đề. Mỗi loại chỉ có thể phê phán sự “dở” trong chính dòng của mình, thì sự chống kia mới thích đáng và cần thiết. Kẻ sáng tạo phát biểu chống thơ câu lạc bộ thì không khác gì đánh nhau với cối xay gió – thậm vô ích. Ngược lại, nhà thơ “tiếp hiện” nghĩ rằng mình đang “sáng tạo” thì không gì đáng phiền hơn.

Hiện đại và hậu hiện đại

Có nhiều yếu tố hậu hiện đại có mặt ở hiện đại rồi, nên hậu hiện đại thực ra chỉ là tiếp nối hiện đại hoặc một khái niệm giả không tồn tại…(2)

Nếu chủ nghĩa hiện đại modernism xuất hiện ở thời điểm cuối của thời kì hiện đại mà cao điểm của nó kéo dài từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thập niên 40 và kết thúc vào đầu thập niên 60 của thế kỉ XX, thì chủ nghĩa hậu hiện đại postmodernism gần như có mặt cùng lúc với thời kì hậu hiện đại postmodernity: đầu thập niên 70 của thế kỉ trước. Từ đó, hậu hiện đại trở thành một trào lưu văn hóa rộng lớn phát triển và lan truyền ra khắp thế giới, từ châu Âu, châu Úc cho đến châu Mỹ La tinh và cả châu Á: Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc,…

Hầu hết mọi thủ pháp hậu hiện đại đều đã được nhà hiện đại hay hiện đại hậu kì biết đến. Sự nhấn mạnh tính chủ quan trong văn bản, sáng tác thuộc dòng ý thức, sự làm mờ biên giới giữa các thể loại, hình thức phân mảnh và sự không liên tục của ý tưởng, chối bỏ thứ trau chuốt mang tính tu từ, khước từ phân biệt hình thức cao/ thấp, trí thức/ bình dân của nghệ thuật,… được chủ nghĩa hiện đại khai phá và đã có các thành tựu lớn, giai đoạn qua.

Nhiều đặc điểm ở hậu hiện đại đã có mặt ở các sáng tác hiện đại chủ nghĩa – không sai! Nhưng điều quyết định xẻ ranh khu biệt hậu hiện đại với cái khác nó, là: nền tảng tư tưởng, hành động và thái độ.

Tân hình thức và hậu hiện đại

Không ít nhà phê bình Việt Nam lẫn lộn giữa trào lưu thơ tân hình thức và chủ nghĩa hậu hiện đại(3).

Tân hình thức New Formalism Poetry là một phong trào thơ xuất hiện ở Mỹ vào thập niên 80, phát triển vào những năm 90 của thế kỉ XX, “chủ trương bởi một số những nhà thơ trẻ sáng tác theo thể luật truyền thống”. Thơ Tân hình thức Việt do nhà thơ Khế Iêm khai mào trên tạp chí Thơ (Hoa Kì) năm 2000, truyền bá vào Việt Nam được các nhà thơ Sài Gòn tiếp nhận.

Tân hình thức “kết hợp với một số yếu tố và kỹ thuật của thơ tự do, phá vỡ những âm hưởng Tiền Chiến, chấm dứt nửa thế kỷ dậm chân tại chỗ của thơ Việt”(4). Vần và lặp lại, vắt dòng, hiệu ứng cánh bướm và tính truyện là các thủ pháp chính của tân hình thức. Tân hình thức là trào lưu như các trào lưu văn nghệ thuần túy khác (siêu thực hay tượng trưng).

Hậu hiện đại thì khác. Có thể nói, tiền tố “DE” mã hóa tất cả khía cạnh của vấn đề hậu hiện đại: trong sống, từ lối nghĩ cho đến ứng xử hay hành động; trong văn chương, từ thủ pháp cho đến giọng điệu… Hậu hiện đại cảm nhận thế giới như là hỗn độn; con người bất tín nhận thức epistemonogical từ đó dẫn đến sự khủng hoảng niềm tin vào đại tự sự grand narratives. Hành động cốt tủy của hậu hiện đại là giải trung tâm hay phi tâm hóa decentralization, de-centring; nó quyết đạp đổ mọi bức tường ngăn mang tính phân biệt đối xử ở mọi dạng thức, cấp độ.

Lối viết đặc trưng của hậu hiện đại là giễu nhại parody (khác với mô phỏng pastiche); tinh thần văn phong của nó là tính phi nghiêm cẩn unseriousness; còn về hình thức, hậu hiện đại xóa nhòa ranh giới phân biệt thể loại; vô phân biệt đề tài cao cấp hay thấp cấp, ngôn ngữ thông tục hay sang trọng,… nhưng không vì thế mà nó tự biến mình thành sản phẩm văn nghệ thứ cấp dành cho giới bình dân phổ thông.

Về tư duy và ý niệm, hậu hiện đại không câu nệ hay bó buộc vào một “định hướng” hay “định tính” nào bất kì. Hậu hiện đại mà chỉ biết có hậu hiện đại thì hết còn là hậu hiện đại, là thế.

 (1) Nguyễn Hòa: “Nếu lấy giễu nhại làm đặc trưng của hậu hiện đại thì Rabelais (sic) giễu nhại gần mười thế kỷ rồi”. (“Tổng kết Hội thảo Thơ Việt Nam hiện đại nhìn từ miền Trung – ứng khẩu tại hội trường và bế mạc”, Vanvn.net, 09-10-2011).

(2) Nguyễn Văn Dân, “Chủ nghĩa hậu hiện đại – tồn tại hay không tồn tại”, Lyluanvanhoc.com, 29-9-2011.

(3) Nguyễn Chí Hoan: “Một nhánh đi mới đây của xu hướng thơ cấp tiến là “thơ tân hình thức”, được xem là một sản phẩm mang tinh thần “hậu hiện đại” rõ rệt nhất của ngôn ngữ thơ ca” (“Thơ, những đụn cát biến hình”, báo Văn nghệ trẻ, 20-2-2011).

(4) Khế Iêm, Vũ điệu không vần, NXB Văn học, H., 2011, tr. 252.

Tác giả

(Visited 54 times, 1 visits today)