Quảng trường Ba Đình: Không gian “trung dung” qua lăng kính năm chiều
Bài viết này mở ra một góc nhìn mới, kiến giải vì sao Ba Đình lại thành một “không gian trung dung” độc đáo - nơi những khác biệt, thậm chí đối lập, lại tìm được điểm gặp gỡ - và tính trung dung ấy cũng chính là sợi chỉ đỏ quen thuộc của văn hóa Việt. Cùng với đó, bài đề xuất những nguyên tắc chỉnh trang để không chỉ lưu giữ ký ức, mà còn hài hòa với yêu cầu quản trị hiện đại.

Những ngày tháng chín này, âm vang của đại lễ diễu binh mừng 80 năm Quốc khánh dường như vẫn ngân trong từng góc phố, trong nhịp tim của mỗi người Việt. Tâm điểm của dư âm ấy không đâu khác ngoài Quảng trường Ba Đình – trái tim chính trị và biểu tượng tinh thần của cả nước. Sau những giờ phút hào hùng, nơi đây lại trở về bầu không khí tĩnh lặng, bình dị, như chưa từng chứng kiến cơn sóng người đỏ rực đi qua. Giữa biển người từng vỡ òa, thăng hoa cảm xúc rồi tan đi, có lẽ không nhiều người biết rằng các công trình trong mỗi khung hình đều ẩn chứa bản đồ biến thiên của không gian kiến trúc suốt hơn một thế kỷ, và dưới mỗi bước chân là tầng tầng lớp lớp đất lịch sử trải dài hơn một thiên niên kỷ.
Vừa “Tây”, vừa “Á Đông”
Chúng ta cùng ngược dòng thời gian, trở về xuất phát điểm của Ba Đình vào cuối thế kỷ XIX. Sau khi phá Hoàng thành Thăng Long, người Pháp chọn mảnh đất trước cổng Vườn Bách Thảo phía cửa Tây thành Thăng Long để dựng khu trung tâm hành chính. Trên khoảng đất hoang sơ nơi trâu bò gặm cỏ bên những hồ ao vừa san lấp, năm 1894, họ xây vòng xoay và vườn hoa Rond-point Puginier (tên lấy theo một vị linh mục) – dân Hà Nội quen gọi “Quảng trường Tròn”. Xung quanh, các tòa nhà thuộc địa dần dần mọc lên: Phủ Toàn quyền nằm trong khuôn viên Bách Thảo, Sở Tài chính Đông Dương, trường Trung học Albert Sarraut, cùng nhiều dinh thự hành chính khác.
Mùa hè 1945, thị trưởng mới bổ nhiệm Trần Văn Lai chủ trương “phi thực dân hóa không gian công cộng”, đổi tên hàng loạt đường phố và vườn hoa. Vườn hoa Puginier trở thành Ba Đình, gợi nhớ cuộc khởi nghĩa cùng tên của Đinh Công Tráng ở Thanh Hóa.
Từ tâm vòng xoay, các trục đường tỏa ra theo các hướng Đông – Tây, Bắc – Nam và một trục chéo, chia không gian thành những mảng rõ ràng. Bồn hoa cùng vòng xoay sau đó nhường chỗ cho lễ đài – nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nơi này được chọn thay vì Quần Ngựa, Nhà hát Lớn hay Đông Dương học xá (nay là Đại học Bách khoa), bởi chỉ ở đây mới có không gian trống rộng đủ lớn để đón hàng vạn người.
Đứng giữa quảng trường hôm nay, ta không chỉ thấy các công trình, mà còn cảm nhận được sự chồng lớp của tư duy quy hoạch qua nhiều thời kỳ. Người Pháp với trục không gian nghiêm ngặt, kiến trúc sư Xô-viết với phong cách hoành tráng và khô khan, và kiến trúc sư Việt Nam với nỗ lực hài hòa hóa và bản địa hóa các không gian quyền lực.
Quy mô của Ba Đình tạo nên một phức cảm thị giác thú vị: vừa rộng lớn, hoành tráng, gợi quyền lực; vừa gần gũi, thân mật, như có thể ôm trọn cả những bước chân bách bộ hay dấu xe gánh hàng rong. Cái lạ ấy không chỉ nằm ở kích thước và tỉ xích (tỉ lệ với con người), mà còn ở cách các lớp tư duy kiến trúc Âu châu, Xô-viết và Việt Nam đan cài thành một tổng thể mang bản sắc khó lẫn.
Quy mô của Ba Đình tạo nên một phức cảm thị giác thú vị: vừa rộng lớn, hoành tráng, gợi quyền lực; vừa gần gũi, thân mật, như có thể ôm trọn cả những bước chân bách bộ hay dấu xe gánh hàng rong. Cái lạ ấy không chỉ nằm ở kích thước và tỉ xích (tỉ lệ với con người), mà còn ở cách các lớp tư duy kiến trúc Âu châu, Xô-viết và Việt Nam đan cài thành một tổng thể mang bản sắc khó lẫn.
Quy hoạch quảng trường mang đậm dấu ấn kiến trúc Xô-viết, gợi nhớ thời kỳ đầu xây dựng đất nước sau thống nhất. Dấu ấn Xô-viết không chỉ hiện hữu trong khối Lăng uy nghi, mà còn từng in trên chính mặt quảng trường: những ô vuông bê tông mỗi chiều 10m đều tăm tắp, tạo nên vẻ nghiêm cẩn. Tuy nhiên, mùa hè mặt sân nóng hầm hập, đã có người ngất khi thao luyện. Chỉ đến khi các kiến trúc sư Việt Nam kiến nghị và thuyết phục chuyên gia Liên Xô cho phủ xanh bằng thảm cỏ, quảng trường mới thực sự trở thành không gian thân thiện như ta thấy hôm nay.

Về quy hoạch, trục Đông – Tây xưa kia chạy dọc đoạn đường Paul Doumer (tên toàn quyền Đông Dương, 1897-1902). Trục này cùng với trục chéo (đường Puginier, nay là Điện Biên Phủ) tạo nên đường nét quy hoạch kiểu châu Âu. Nhìn trên bản đồ Paris, ta dễ nhận ra những nét tương đồng với nhiều khu vực, như Quảng trường Hòa hợp (Place de la Concorde).
Trong mọi quảng trường quyền lực, trục trung tâm – nghi lễ và biểu tượng – luôn là xương sống. Thiên An Môn ở Bắc Kinh, Quảng trường Đỏ ở Moskva, Place de la Concorde ở Paris hay National Mall ở Washington, D.C. đều khẳng định quyền lực bằng một trục chính thẳng tắp ngút tầm mắt. Ở Ba Đình, đó là trục Đông -Tây, kế thừa từ trục gốc của Hoàng thành Thăng Long.

Trục này từng “nhòa đi” khi đoạn đường Paul Doumer bị phá bỏ để nhường chỗ cho các ô cỏ. Nhưng khi Lăng Bác và Đài tưởng niệm Bắc Sơn xuất hiện, trục nghi lễ ấy lại trở nên rõ nét hơn: từ Lăng ở phía Tây, kéo qua cột cờ, vườn hồng, tới Đài tưởng niệm – một đường thẳng biểu tượng nối dài từ quá khứ đến hiện tại. Tưởng tượng xa hơn trên bản đồ, ta thấy trục ấy không dừng lại trong ranh giới quảng trường, mà âm thầm chạy tiếp tới tận phố Cửa Đông ở khu phố cổ, như một sợi chỉ vô hình kết nối lịch sử thủ đô ngàn năm tuổi.
Nhà Quốc hội – biểu tượng quyền lực cao nhất – thường được đặt trên trục trung tâm (như ở Pháp, Mỹ, Brazil), hoặc đăng đối qua trục với một công trình khác (như ở Trung Quốc, Ấn Độ). Dường như, tư tưởng và thể chế chính trị đã in dấu vào triết lý quy hoạch này. Ở Á Đông thời phong kiến, như tại Bắc Kinh, trục chính thẳng tắp của Tử Cấm Thành đã dành riêng cho ngai vua, nên Đại lễ đường Nhân dân – “Nhà Quốc hội” của thời hiện đại – phải lùi sang một bên, không chiếm lĩnh trục ấy. Ngược lại, ở phương Tây, nơi dân chủ được tôn vinh tuyệt đối, tòa nhà Quốc hội đại diện cho quyền lực tối cao luôn được đặt ở vị trí trung tâm, như viên ngọc chốt trên trục chính của đô thị quyền lực.
Trường hợp Việt Nam lại khá ngẫu nhiên. Hội trường Ba Đình, nơi tổ chức bảy kỳ họp Quốc hội từ 1963–2007, được xây gấp trong bối cảnh cần gấp không gian cho các cuộc họp và sự kiện chính trị, nên chọn vị trí sẵn có trên khung đường cũ thời Pháp, lệch khỏi trục chính. Khi Lăng Bác được dựng sau đó (1973 -1975), trục chính Bắc – Nam mới hiện ra rõ nét, và Hội trường Ba Đình vô tình trở thành công trình “lệch trục”, đăng đối với trụ sở Bộ Ngoại giao theo mô hình “Á Đông”.
Một số tư liệu hiếm kể thêm: đầu thập niên 1960, trước nhu cầu cấp bách cần hội trường cho Quốc hội và các sự kiện chính trị, Bác Hồ chủ trương xây gấp một công trình tạm, giao KTS Nguyễn Cao Luyện thiết kế. Dẫu vậy, khi bị tháo dỡ, công trình vẫn để lại nhiều luyến tiếc, bởi đã chứng kiến những năm tháng lãnh đạo đất nước từ chiến tranh ác liệt, tới giải phóng, bao cấp, rồi Đổi mới. Trên nền Hội trường Ba Đình cũ, năm 2015, Nhà Quốc hội mới được xây dựng, nối liền truyền thống với hiện tại. Tòa nhà mang phong cách hiện đại, đối diện chếch với Lăng Bác qua quảng trường, trở thành biểu tượng quyền lực mới.
Số ô cỏ của quảng trường thay đổi qua từng giai đoạn: ban đầu 168, sau mở rộng thành 240. Khi mở đường Độc Lập để xây Nhà Quốc hội thì giảm xuống 210 ô như hiện tại. Nhưng trong lần chỉnh trang tới, con số sẽ tăng lên thành 238 ô.
Trên nền Hội trường Ba Đình cũ, năm 2015, Nhà Quốc hội mới được xây dựng, nối liền truyền thống với hiện tại. Tòa nhà mang phong cách hiện đại, đối diện chếch với Lăng Bác qua quảng trường, trở thành biểu tượng quyền lực mới.
Kể từ khi thành hình đầu thế kỷ 20, Ba Đình vừa là trung tâm chính trị, vừa là một “không gian triển lãm sống” – một cuốn biên niên sử viết bằng gạch đá. Mỗi công trình đều mang dấu ấn riêng nhưng vẫn hòa vào tổng thể: Chùa Một Cột đậm chất truyền thống, Phủ Chủ tịch trong khuôn viên Bách Thảo (xưa là Phủ Toàn quyền) theo kiến trúc thuộc địa, Bộ Ngoại giao và Văn phòng Trung ương Đảng (trước là Sở Tài chính Đông Dương và trường Albert Sarraut) theo phong cách Đông Dương. Lăng Bác tiêu biểu cho kiến trúc xã hội chủ nghĩa, Bảo tàng Hồ Chí Minh phong cách hiện đại nhưng phảng phất nét dân tộc, còn Nhà Quốc hội là phong cách đương đại toàn cầu.
Ngay cả các công trình phương Tây vẫn có dấu ấn bản sắc Việt và phù hợp bối cảnh nhiệt đới: mái ngói dốc, ô-văng che nắng mưa ở Sở Tài chính Đông Dương; Lăng Bác với điều chỉnh hợp khí hậu Hà Nội; Tượng đài Bắc Sơn phảng phất dáng ngôi chùa Việt trong khối lập phương; Bảo tàng Hồ Chí Minh khắc hoa văn truyền thống trên bêtông; Nhà Quốc hội với mặt đứng nhịp điệu lam bêtông gợi hình ảnh mành tre.
Sâu hơn, những triết lý Á Đông còn ẩn chứa trong thiết kế mặt bằng. Nhà Quốc hội mới thoạt nhìn tưởng chỉ thuần hiện đại, nhưng hình khối tròn – vuông đan xen lại gửi đi thông điệp Á Đông: trời và đất, vĩnh hằng và hữu hạn, quyền lực và nhân sinh. Một phép ẩn dụ kiến trúc kín đáo mà sâu xa, khiến công trình dù mang dáng dấp toàn cầu vẫn neo lại trong bản mệnh văn hóa Việt.
Tính “vừa Tây vừa Á” của quảng trường không chỉ thể hiện ở không gian vật lý mà còn ghi dấu trong những điều vô hình: những khoảnh khắc lịch sử trọng đại. Đặc biệt nhất là ngày 2/9/1945, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Đặt tên quốc gia mới thế nào là một bài toán vừa chiến lược vừa biểu tượng cao. Thế giới khi đó đang chuyển sang trật tự mới sau Thế chiến II. Liên Xô có uy tín lớn nhờ chiến thắng phát xít. Mỹ và phương Tây vẫn nắm ảnh hưởng nhưng chưa đối đầu trực diện với Liên Xô. Việt Nam cần khẳng định độc lập mà không gây lo ngại cho bất kỳ phe nào.
Quốc hiệu “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” của nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời trong bối cảnh cần nhiều tính toán: vừa khẳng định bản sắc dân tộc, vừa tìm điểm cân bằng trong thế giới lưỡng cực mới hình thành. Hai chữ “Việt Nam” lần đầu vang lên như quốc hiệu chính thức. Chữ “Dân chủ” đoạn tuyệt với phong kiến, nhưng cũng đủ mềm để phương Tây không dè chừng. Chữ “Cộng hòa” khẳng định tinh thần đại diện, phổ biến khắp trong tên của nhiều quốc gia hiện đại.
Đó là lựa chọn vừa bản lĩnh vừa khéo léo, như mũi tên trúng nhiều đích: đoàn kết trong, đồng thuận ngoài, khẳng định độc lập mà vẫn mở đường ngoại giao. Ngay trong Tuyên ngôn Độc lập, việc Bác trích dẫn hai bản tuyên ngôn Mỹ và Pháp đã thể hiện nghệ thuật “ngoại giao cây tre” – khéo léo cân bằng và trí tuệ. Bác đã đặt tên cho đất nước bằng một tầm nhìn xa trông rộng, khiến nó không “lỗi mốt” ngay cả khi nếu được đặt trong bối cảnh thời nay với ngoại giao đa phương, “làm bạn với tất cả các nước”, phát triển nền kinh tế thị trường và thúc đẩy kinh tế tư nhân.
Vừa lễ nghi, vừa đời sống
Ba Đình là một chốn ký ức đặc biệt. Nơi đây từng lưu giữ không khí thiêng liêng ngày 2/9/1945, nỗi đau quốc tang 1969, niềm vui thống nhất trong lễ diễu binh đầu tiên năm 1975, và những đại lễ sau này.
Nhưng song song với những dấu mốc lịch sử, đời sống thường ngày vẫn lặng lẽ tiếp diễn. Ngày qua ngày, những cụ già thong thả tập thể dục, các gia đình trẻ dắt con đứng hóng xem lễ đổi gác. Dòng người chầm chậm viếng Lăng. Nhóm du khách nước ngoài lững thững tản bộ. Chị hàng hoa thong thả đạp xe ngang qua quảng trường để vào phố cổ.
Giữa bao công trình hoành tráng, quảng trường vẫn vắng bóng một kiến trúc hay biểu tượng điêu khắc gợi nhắc lễ đài năm 1945 – nơi vang lên lời Tuyên ngôn khai sinh đất nước. Đó là ký ức thiêng liêng cần được hóa thân thành hình khối. Một tượng đài khiêm nhường nhưng giàu sức gợi, đặt đúng chỗ, sẽ tạo nên “chốn ký ức” để mỗi thế hệ có thể chạm tay vào lịch sử.
Từng mảnh ghép đời thường ấy dệt nên một nhịp điệu thị giác đầy sức sống. Lễ thượng cờ và hạ cờ diễn ra trang nghiêm trước ánh mắt bao người, nhưng đồng thời cũng hòa vào nhịp sinh hoạt thường nhật. Khi đêm xuống, quảng trường chìm trong tĩnh lặng, ánh đèn vàng phủ lên một bầu không khí hư ảo, hoài niệm.
Vì thế, Ba Đình hiện ra như một không gian công cộng đặc biệt của Hà Nội, mang tính “lưỡng tính”: vừa là quảng trường nghi lễ, quyền lực quốc gia, vừa là nơi sinh hoạt cộng đồng gần gũi 24/7. Đây là một trường hợp hiếm gặp trong số các quảng trường quốc gia trên thế giới.
Cảm nhận không gian qua ba chiều vật chất và thêm chiều thời gian đã cho ta cái nhìn sâu sắc. Nhưng còn một tầng sâu hơn. Một khái niệm mà tôi muốn gọi tên: chiều thứ năm của không gian.
Đó là thứ mà nhiều người cảm được nhưng khó gọi tên. Đó là chiều của “bầu không khí”. Chiều của cái “hồn của nơi chốn” (genius loci, hay spirit of place).
Cùng một không gian, cùng một thời điểm, sự hiện diện hay vắng mặt của con người, hòa quyện với ánh sáng, âm thanh, thời tiết… tạo ra những trải nghiệm hoàn toàn khác nhau. Khi lặp đi lặp lại, những trải nghiệm ấy kết tinh thành “cái hồn của nơi chốn”. Và khi cái hồn ấy thấm vào từng con người, nó biến địa điểm thành “chốn ký ức” (Pierre Nora gọi là lieux de mémoire), nơi nuôi dưỡng cảm giác gắn bó, khiến người đi xa vẫn khắc khoải nhớ về: nhịp múa dưỡng sinh lặng lẽ trong nắng sớm thu bên Bờ Hồ, tiếng rộn ràng của trống Trung thu trên phố Hàng Mã, hay cảnh 30 Tết nô nức trẩy hội chợ hoa Hàng Lược trong lất phất mưa xuân.
Nhớ đến điều này, tôi lại nghĩ đến câu thơ của Chế Lan Viên: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở / Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Đó là điều mà những “không gian vô hồn” (cái mà Marc Augé gọi là non – place) – như đường cao tốc, kho bãi hay bến cảng – không thể mang lại. Ở đó, ta chỉ lướt qua, vô thức và vô cảm, không có chỗ cho ký ức hay tình cảm.
Chính sự pha trộn giữa đời sống và nghi lễ, giữa chuyển động và tĩnh lặng, khiến Ba Đình trở nên khác biệt. Nhiều quảng trường quốc gia thường chỉ toát lên một lớp hồn cốt duy nhất. Thiên An Môn ở Bắc Kinh gắn với quyền lực quân chủ và sự kiểm soát ngặt nghèo. Quảng trường Đỏ ở Moskva tráng lệ nhưng xa cách. National Mall ở Washington, D.C. đậm chất “sân khấu dân chủ”, nơi quyền lực và công chúng gặp nhau theo trật tự riêng.
Vừa sân khấu quốc gia, vừa chốn biểu đạt cá nhân
Nếu nhìn Ba Đình không chỉ qua lăng kính biểu tượng, mà còn bằng những yêu cầu thực tế của một “sân khấu quốc gia” cho hàng vạn, thậm chí hàng trăm nghìn người, ta sẽ thấy rõ những thách thức về hậu cần và quản trị không gian.
Đầu tiên là hạ tầng cứng. Các không gian công cộng lớn trong thành phố – nơi thường tổ chức sự kiện – cần được thiết kế để chuyển nhanh sang “chế độ sự kiện”. Điều này đồng nghĩa phải bố trí sẵn nhiều tiện ích: bến xe buýt, bãi đỗ xe, đường thoát hiểm, nhà vệ sinh công cộng (cả vị trí cho “hộp vệ sinh” tạm), hệ thống điện ngầm chờ, hạ tầng mạng dự phòng, và không gian cho các cấu trúc tạm có thể dựng – tháo nhanh.
Quảng trường Ba Đình với thảm cỏ rộng thuận lợi cho việc dựng lễ đài hay sân khấu, và chuyển chế độ sự kiện. Song, quảng trường vẫn thiếu những hạ tầng căn bản để trở thành một “sân khấu quốc gia” trọn vẹn: bãi đỗ xe ngầm đủ sức chứa, hệ thống nhà vệ sinh công cộng phân tán hợp lý, và vùng đệm để giãn dòng người. Vào đại lễ, những thiếu hụt này lộ rõ: đám đông tràn ra phố, rác ngập tràn, giao thông và an toàn đều chịu áp lực.
Lối thoát bền vững là mở mạng lưới bãi tập kết từ xa, kết nối bằng metro và xe buýt con thoi từ các nhà ga, để phần lõi Ba Đình được dành trọn cho người đi bộ và phương tiện khẩn cấp.
Bên cạnh hạ tầng cứng, cần hạ tầng mềm bằng công nghệ: trạm cấp nước lưu động, sơ cứu dã chiến, nhà vệ sinh di động, điện dự phòng, sóng viễn thông tăng cường. Các nền tảng AI và IoT có thể đo mật độ người theo thời gian thực, dự báo ùn tắc, cảnh báo sớm từ ga metro hay bãi xe. Kết nối với camera và trung tâm điều hành, công nghệ này giúp điều phối nhịp nhàng, tránh hỗn loạn trong giờ cao điểm.
Trong tương lai, để các can thiệp quanh Ba Đình tương xứng với tầm vóc, cần một tập nguyên tắc rõ ràng: kiểm soát chiều cao và vật liệu công trình mới, giữ nền cho trục nghi lễ; hình thành vùng đệm công viên và bãi đỗ ngầm (có khả năng chứa xe buýt); xây dựng hệ thống vệ sinh phân tán; chuẩn bị hạ tầng chờ cho điện, viễn thông, cấp nước, sơ cứu để quảng trường có thể “bật” chế độ sự kiện bất cứ lúc nào.
Mọi thay đổi lớn cần qua quy trình đánh giá tác động ký ức nơi chốn. Thiết kế phải gắn với quy trình vận hành trước – trong – sau sự kiện, có KPI cụ thể về an toàn, vệ sinh, thời gian hoàn nguyên. Chẳng hạn, sau 24 giờ phải thu gom xong rác, tháo hạ tầng tạm; sau một tuần, khôi phục công viên và mặt đường. Khi nguyên tắc được tuân thủ, chỉnh trang sẽ gia tăng giá trị công cộng mà không xóa nhòa ký ức và bản sắc.
Vậy không gian Ba Đình còn cơ hội mở rộng chỉnh trang không? Phía trước, trái, phải của Lăng đã tiệm cận giới hạn vì đều là không gian di sản. Nhưng phía sau Lăng vẫn có dư địa. Việc bổ sung 28 ô cỏ ở phía Nam giúp kết nối khu vực này tốt hơn. Hiện Bảo tàng Hồ Chí Minh chưa phát huy hiệu quả sử dụng, bao gồm cả không gian xung quanh vốn khá lộn xộn, với quán bia, cà phê, karaoke ở phố Ngọc Hà. Nếu chỉnh trang, đặc biệt tăng cường không gian mở đệm, hậu cần – bãi đỗ xe, nhà vệ sinh công cộng, Ba Đình sẽ đẹp và “360 độ” hơn.
Một câu hỏi lớn đặt ra: chỉnh trang hôm nay có giữ được cái hồn Ba Đình mai sau không? Câu trả lời là có thể, nhưng không tự động. Việc mở rộng quảng trường hơn 7.000 m² với 28 ô cỏ và kéo dài đường Hùng Vương vừa qua đã buộc phải hy sinh một số công trình Pháp thuộc và di sản công nghiệp trăm năm như Nhà máy Postef, 61 Trần Phú, cùng một số cây cổ thụ. Đây là mất mát không hoàn nguyên, sẽ để lại nuối tiếc nếu thiếu bù đắp.
Vì thế, các phương án chỉnh trang cần ghi dấu nền móng (footprint) công trình cũ bằng vật liệu khác biệt, trồng cây thay thế cùng chủng loại, tán tương đương.
Nhưng có một thiếu sót đáng tiếc: giữa bao công trình hoành tráng, quảng trường vẫn vắng bóng một kiến trúc hay biểu tượng điêu khắc gợi nhắc lễ đài năm 1945 – nơi vang lên lời Tuyên ngôn khai sinh đất nước. Đó là ký ức thiêng liêng cần được hóa thân thành hình khối. Một tượng đài khiêm nhường nhưng giàu sức gợi, đặt đúng chỗ, sẽ tạo nên “chốn ký ức” để mỗi thế hệ có thể chạm tay vào lịch sử.
Ở chiều cạnh văn hóa – xã hội, còn một yếu tố hậu cần mềm: ý thức công dân. Quảng trường quốc gia không chỉ cần hạ tầng, mà còn cần cộng đồng ứng xử văn minh: xếp hàng, giữ trật tự, nhường lối khi khẩn cấp. Trong đại lễ, hành vi nhỏ – bỏ rác đúng chỗ, không chen lấn, tuân hướng dẫn – góp phần giữ hình ảnh quảng trường sạch đẹp, kỷ luật.
Vì vậy, cùng với trạm vệ sinh, bãi xe, công nghệ giám sát, phải đầu tư vào “phần mềm xã hội”: tình nguyện viên, biển chỉ dẫn, truyền thông cộng đồng trước sự kiện. Chỉ khi đó, Ba Đình mới thực sự trở thành nơi ký ức tập thể gắn liền với văn minh công cộng, để mỗi dịp tụ hội vừa là lễ hội dân tộc, vừa là bài học ứng xử đô thị.
Thay lời kết
Trong những dịp đại lễ, nơi đây biến thành “sân khấu tập thể”: hàng vạn con người trong sắc đỏ sao vàng, chen vai sát cánh, cùng hát vang quốc ca. Khoảnh khắc ấy là “cao trào tập thể” (collective effervescence) – chất keo mà Émile Durkheim gọi là sức mạnh có thể “nối vòng tay lớn” cả dân tộc, và chỉ những dịp đặc biệt như vậy mới có cơ hội để kích hoạt.
Hai sự kiện trọng đại năm nay – 30/4 ở TP.HCM và 2/9 tại Hà Nội – phản chiếu hai sắc thái bổ sung cho nhau. Đại lễ 30/4 gửi đi thông điệp hòa bình và hòa giải dân tộc: khí tài chỉ điểm xuyết, nhường chỗ cho khối diễu hành đa dạng giữa dân sự và quân đội. Đại lễ 2/9 lại nhấn mạnh sức mạnh tự cường trong một thế giới đầy biến động, với vũ khí hiện đại toát lên hào khí quốc gia. Cả hai hội tụ trong một quỹ đạo chung: lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và tinh thần đại đoàn kết.
Hình ảnh những đoàn quân quốc tế cùng sánh bước trên quảng trường Ba Đình hôm nay, hay trên đại lộ Lê Duẩn dịp 30/4, dưới cờ đỏ sao vàng và tiếng quân nhạc hùng tráng, mở thêm một tầng nghĩa mới. Việt Nam kiên cường bằng nội lực, nhưng cũng tự tin vươn ra thế giới bằng tinh thần hòa bình và hợp tác.
Ngắm Ba Đình, lớp người đi trước tìm lại ký ức, lớp trẻ gửi gắm niềm tin, còn những người đi xa mang theo nỗi nhớ.
Các thế hệ, dẫu khác biệt, vẫn gặp nhau ở không gian ấy – nơi lịch sử và văn hóa, ký ức và khát vọng cùng cộng hưởng.
Chính sự “trung dung” và đa tầng, đa lớp lịch sử – văn hóa đó đã biến Ba Đình không chỉ trở thành một không gian đô thị đặc sắc của thủ đô, mà còn là một phần máu thịt trong tâm thức và tình cảm mỗi người Việt.□
Bài đăng Tia Sáng số 18/2025