Sử thi Ba Tư Shahnameh: “Ngẫm hay muôn sự tại trời”

Liệu có thể viết về một cuốn sách mà ta chưa đọc hết? Cụ thể là, có thể viết về một sử thi mà ta mới chỉ đọc được hai phần ba? Shahnameh của Ferdowsi, thi sĩ Ba Tư, có tuổi đời ngàn năm, là sử thi dài nhất thế gian, với khoảng 50.000 câu thơ, mỗi câu thơ hai mươi hai âm tiết, dịch sang tiếng Anh dài một ngàn trang, tôi mới chỉ đọc đến trang thứ 700 khi viết bài này, cho số báo in cuối cùng của Tia Sáng, một số báo rất đặc biệt.

Kayumars trên ngai vàng. Ảnh: Bảo tàng Nghệ thuật châu Á Quốc gia, Smithsonian.

Shahnameh được sáng tác vào cuối thế kỷ 10, đầu thế kỷ 11, tựa đề của nó có nghĩa là “Sách của các vua”. Sử thi kể về một lịch sử dài của đế chế Ba Tư từ buổi khai quốc cho đến ngày tàn lụi, khuất phục trước người Ả Rập và Hồi giáo. Lịch sử rất dài, từ thời đại thần thoại, tới thời đại anh hùng, rồi thời đại lịch sử, với rất nhiều vị vua, rất nhiều chiến binh, rất nhiều người hùng, rất nhiều nhân vật được mô tả là cao như cây bách, vương miện trên đầu sáng như Mặt trăng, thân thể phát ra “farr” [vương khí], ai cũng được miêu tả rằng không gì so sánh được, không gì dũng cảm bằng, không gì tài giỏi hơn. Họ có khi công minh, có khi lầm lạc, có khi ở rất gần chân lý, có khi dạt xa khỏi chân lý, nhưng họ có điểm chung: nhiều lần chiến thắng cái ác, nhưng cuối cùng đều chịu khuất phục trước Định mệnh. 

Định mệnh, trong tiếng Ba Tư là Qażā. Kinh Koran cho rằng, mọi điều trên thế giới này đã được Thượng Đế ghi lại bằng Cây bút của Ý chí Thiêng liêng (qalam-e mašīyat) trên Tấm bảng của Sắc lệnh Vĩnh cửu (lawḥ-e qażā). Bút đặt xuống, mực khô, và thế là Định mệnh được bảo toàn, không thể thay đổi. Người Ba Tư còn dùng ẩn dụ Định mệnh như một mũi tên. Hàm ý Định mệnh vừa sắc bén, xuyên thấu, vừa đột ngột, tàn bạo, không thể né tránh. 

Ngẫm ra một tác phẩm đồ sộ ở Trung Đông cả thiên niên kỷ trước, cũng gặp gỡ Nguyễn Du của chúng ta

Ngẫm hay muôn sự tại trời,

Trời kia đã bắt làm người có thân.

Bắt phong trần, phải phong trần,

Định mệnh trong Shahnameh quyết định vinh quang và thất bại, sự sống và cái chết. Ngay từ vị vua đầu tiên của Iran là Kayumars, vị hoàng đế thuở hồng hoang, từ thời còn chưa tìm ra lửa, mặc áo da báo, sống trên núi cao, dạy nhân dân biết nấu ăn, dệt vải, với đội quân gồm sư tử, hùm beo, chim muông, gấu chó, Định mệnh đã ở đó để ngài chống lại Ahriman, tinh thần của cái Ác, của sự huỷ diệt, của hỗn loạn, của bóng tối. Định mệnh đã ở đó chứng kiến sự thịnh trị của Ngài. Định mệnh cũng ở đó khi ngài nhìn đứa con tài hoa của mình phải chết. Định mệnh còn ở đó khi ngài chết: khi ngài còn sống, thế giới nằm dưới chân ngài. Nhưng “thế gian như câu chuyện ta thường nghe kể: cái ác của con người và vinh quang của họ đều tan biến”.


Hình ảnh người anh hùng hô mưa gọi gió, vó ngựa tung bay mắc kẹt trong một hố sâu dưới đất, không thể bước đi, chông cắm đầy mình, cho thấy sự quay lưng của Định Mệnh, sự thăng trầm của việc làm người. Và anh hùng thì có khác chi ai, anh hùng cũng chẳng ngoài vòng tử sinh.

Sau Kayumars, có thêm vài chục vị vua khác, có khi là dòng dõi của ngài, có khi không. Đôi khi ta thấy số phận họ như được nhân bản, người nào cũng đầy tham vọng, dù mức độ khác nhau, người nào cũng đầy bi kịch, dù mức độ khác nhau, nhưng người nào sau rốt cũng nhận ra rằng: “Ngai vàng chỉ là ảo ảnh, chỉ là cơn gió, và ta không nên gắn trái tim mình với nó đến vĩnh hằng.” Mỗi người đều lập vô số chiến công, đầu tiên là tìm ra Ngọn lửa thiêng – nguồn gốc của Bái Hỏa giáo, rồi lần lượt xây nên bao nhiêu thành quách, tích lũy bao nhiêu của cải – cả sử thi lấp lánh châu ngọc vàng bạc xạ hương – nhưng người nào người nấy đều vỡ lẽ chân lý trong cái chết, khi Định mệnh bắn mũi tên chí tử: “Ta đã giải trừ thế gian khỏi khổ đau, xây nên những đô thị, những pháo đài. Nhưng giờ đây cứ như thể ta chưa từng nhìn thấy, chưa từng biết gì về thế gian; mọi tính toán trôi qua, chìm vào bóng tối. Sự sống chẳng nhiều sức mạnh như cái chết; nó là cái cây mà lá và quả đều tẩm độc.” Đó là lời của vua Manucheir, một hậu duệ của Kayumars. Nhưng ngoài Manucheir, rất nhiều vị vua khác sau ngài đều trăng trôi như thế, trước khi họ bỏ lại ngai vàng, hoặc trước khi trở về cát bụi.

Có hai cái chết tôi nhớ nhất trong 700 trang đầu đã đọc. Cái chết của Kay Khosrow, một vị vua với lý lịch bất tường: ông nội ngài là Kay Kavus, vị vua hùng mạnh nhưng kiêu ngạo, từng có ao ước mang đôi cánh bay lên trời; ông ngoại ngài là Afrasyab, vị vua của Turan, kẻ đại địch của Iran. Ngài sinh ra đã có một mối thù: cha ngài Seyavash bị hoàng hậu của Kavus say mê và hãm hại, phải sang nương nhờ Afrasyab, trở thành phò mã của vị vua này, sau bị cha vợ giết thảm. Kay Khosrow sau khi trả thù cho cha, đi lên đỉnh cao quyền lực, bỗng nhiên chán ngai vàng, chỉ ngày đêm cầu nguyện, nhân dân tưởng vua điên, bởi nếu tỉnh sao lại không cần lụa là châu báu bạc tiền? Vua không điên, vua đã đạt tới một trí tuệ cao hơn rồi, liền nhường ngai vàng cho một họ hàng thân thích xa xôi, còn mình cùng những người thân tín đi lên núi. Bình minh nọ, những người hầu cận không thấy vua đâu. Ngài biến mất, chẳng để lại vết tích nào. Họ không nghe lời vua dặn phải về Ba Tư ngay, còn nán lại nơi dòng suối vua biến mất, cuối cùng họ chết vùi trong tuyết như lời tiên tri. 

Sekandar, phiên bản Alexander Đại đế trong sử thi Shahnameh.

Cái chết thứ hai là của Sekandar, phiên bản Ba Tư của Alexander Đại đế, người đã dựng nên đế chế Hy Lạp, xâm chiếm Ba Tư, nhưng trong Shahnameh chàng được hư cấu thêm chi tiết là đứa con bị bỏ rơi của một vị vua Ba Tư, chỉ vì mùi hôi trong miệng mẹ chàng. Sekadar hẳn là vị vua đi nhiều nhất, thám hiểm xa nhất, gặp nhiều kỳ hoa dị thảo nhất: nào chim biết nói, nào cây biết tiên tri, nào suối trường sinh, nào vùng đất của những kẻ có đôi bàn chân oặt oẹo. Trong những chuyến phiêu lưu của mình, Sekandar đã bắt gặp một cung điện bằng đá hoàng ngọc, trên ngai vàng của cung điện là một cái xác tã tượi. Xác khuyên Sekandar: “Hỡi đức vua, lòng vẫn còn đầy khát vọng và ham muốn, xin đừng làm kẻ mê muội thêm nữa! Người đã thấy những điều chưa từng ai được thấy, nhưng giờ là lúc phải ghìm cương lại. Đời người nay đã ngắn lại rồi, và ngai vàng cũng đang vắng bóng chủ nhân.” Cảnh ấy làm Sekandar đau đớn bật khóc. Liền đó, Sekandar lại lên đường và gặp một cái cây. Cây phán rằng ngày của Sekandar sắp tận, cái chết sẽ đến sớm thôi, ngươi sẽ chẳng được gặp lại mẹ nữa rồi. Điều kỳ lạ là ngay sau đó, Sekandar lại tiến quân về Trung Hoa, về Babylon. Dẫu biết đời mình sắp hết và vô cùng chua xót vì sự thật ấy, dẫu đã nghe lời khuyên của bậc trí giả về kỳ hạn đời người, Sekandar vẫn không dừng lại việc toan tính cho đế quốc mình dựng lên. Chàng biên thư cho mẹ, nói rằng con người đều phải chết, dù là hoàng đế hay kẻ ăn mày, nhưng chàng đã tính trước mọi nhẽ để người Ba Tư không chống lại Hy Lạp. 

Hai vị hoàng đế đối xử với Định mệnh thoạt trông thật khác nhau! Một người tự nguyện từ bỏ ngai vàng để chủ động bước vào cái chết; một người bị cái chết đuổi kịp đến nơi vẫn muốn làm chủ vương quốc của mình. Nhưng dù bình thản bước vào cái chết như Khosrow, hay rơi giọt nước mắt nuối tiếc khi nghe lời sấm về phận mình như Sekandar, cả hai đều làm ta cảm động, bởi trí tuệ của tâm linh hay trí tuệ của hành động tuy hai mà một. Sự khôn ngoan của tuổi già hay khát vọng của tuổi trẻ đều có phẩm chất anh hùng ở đó. Sự chấp nhận hay sự kháng cự đều có chân lý ở đó. Ta chọn ra một lý tưởng để sống, và sống với lý tưởng ấy đến cùng.

Bên cạnh những nhà vua, Shahnameh còn có những vị anh hùng phò tá những vị vua. Trong số đó, lưu danh muôn thuở là dòng họ anh hùng Sam – Zal – Rostam, về sau đều đi vào văn hóa dân gian Ba Tư. Chương truyện về Rostam cùng chú ngựa Rakhsh vượt bảy thử thách để cứu vua Kay Kavus ngạo mạn khỏi tay Bạch Quỷ, hay hành trình cái thiện chinh phục cái ác, là một trong những phần kiêu hùng nhất, sống động nhất, hấp dẫn nhất của Shahnameh. Rostam giết sư tử, Rostam giết rồng, Rostam vượt sa mạc, Rostam diệt phù thủy, Rostam diệt quỷ dữ, Rostam cứu Kavus khỏi cảnh mù lòa, Rostam đạt đến tầm vóc lớn lao không ai bì kịp, nhưng như phải thế với mọi vị anh hùng, người lập kỳ tích lớn nhất cũng luôn phải là người phạm tội kinh hoàng nhất. Và có lẽ trong Shahnameh không có ai trải qua bi kịch như Rostam. Chàng đối đầu cùng con trai ruột Sohrab mà không hay biết, và chính tay chàng đã giết chết đứa con đẻ của mình. Ôm xác con trong tay, Rostam muốn tự sát. Câu nói của Rostam là một trong những câu đáng nhớ nhất của sử thi này:

“Ta chẳng còn sót lại lòng dũng cảm nào, sức mạnh nào hay lý trí nào; đừng tiếp tục cuộc chiến với người Thổ nữa, cái ác mà ta phạm phải hôm nay đã đủ rồi.”

Người anh hùng lớn nhất toàn cõi Iran trong tuyệt vọng thốt lên rằng ngài chẳng còn sót lại chút dũng cảm hay sức mạnh nào! Đáng thương biết bao và xót xa biết bao! Trước sự sắp đặt oái oăm của Định mệnh, người mạnh nhất cũng trở nên yếu đuối và bạc nhược. Việc Rostam không tự kết liễu khi ấy có lẽ cũng là Định mệnh. Rostam phải chết một cái chết tầm thường hơn: bị người em cùng cha khác mẹ phản bội. Rostam cùng con ngựa thần bị lừa rớt xuống hố cắm chông tẩm độc. Hình ảnh người anh hùng hô mưa gọi gió, vó ngựa tung bay mắc kẹt trong một hố sâu dưới đất, không thể bước đi, chông cắm đầy mình, cho thấy sự quay lưng của Định mệnh, sự thăng trầm của việc làm người. Và anh hùng thì có khác chi ai, anh hùng cũng chẳng ngoài vòng tử sinh.

Những người anh hùng, những bậc vương giả, họ đến và đi, xuất hiện rồi biến mất, trỗi dậy rồi lụi tàn. Họ thường xuyên đánh bại cái Ác nhưng không luôn luôn đánh bại cái Ác, cũng không vĩnh viễn đánh bại cái Ác, song không vì thế mà họ ngừng chống lại cái Ác; họ biết mọi nỗ lực của mình chỉ là tạm thời, mọi chiến thắng của mình là phù du, nhưng họ không tiếc thân mình cho những chiến công phù du ấy. 

Cái Ác lần đầu xuất hiện trong sử thi Shahnameh dưới dạng loài quỷ giết chết người con trai yêu Siamak của vua Kayumars. Sau đó hậu duệ của Kayumars là vua Tahmures đã bắt trói được hết lũ quỷ tà ác, nhưng chúng đã xin vua đừng giết chúng, và hứa hẹn sẽ dạy cho vua những điều có ích. Vua đồng ý, và chúng đã dạy nhà vua chữ viết. “Trái tim ngài bừng sáng như Mặt trời khi lĩnh hội được tri thức ấy. Chúng không chỉ dạy ngài một thứ chữ, mà gần ba mươi loại, gồm các lối viết phương Tây, Ả Rập, Ba Tư, cũng như Soghdian, Trung Quốc, Pahlavi, chỉ cho ngài cách tạo hình và phát âm từng chữ cái.” Cũng chính lũ quỷ, về sau được vị vua kế tục là Jamshid sai đi trộn đất sét với nước để làm ra gạch, rồi xây nên những nhà tắm công cộng, rồi những tòa thành, những lâu đài. Chúng là cha đẻ của nơi ta trú ngụ, của đời sống tiện nghi. Lũ quỷ mang đến sự u mê nhưng cũng là nguồn gốc của học thuật và tri thức. Vì thế cái Ác cũng sống mãi, chung chiêng cùng cái Thiện.

Việc đọc Shahnameh của tôi đang tạm dừng sau cái chết của Sekandar. Ai còn làm vua? Ai còn bị truất ngôi? Ai còn chạm tới vương quyền và ai còn sụp đổ? Tôi chưa biết. Chỉ biết rằng đế chế Ba Tư huy hoàng ấy rồi cũng khép lại. Vì không có gì mãi mãi. Vật cực tất phản. Vật tráng tắc lão. Cái lẽ ấy đúng và đúng ở bất cứ đâu, dù đáng buồn nhưng là lẽ tất yếu của đời này. 

Đoạn mà tôi đang dừng lại, Ferdowsi – nhà thơ Ba Tư vĩ đại nhất, người đã bị sultan Mahmud Ghaznavi bội ước, ăn quỵt số tiền đáng ra phải trả cho ông khi viết Shahnameh, sau rốt kết thúc đời mình trong lang thang nghèo khổ, không có thông tin rõ ràng về những năm cuối của ông, truyền thuyết rằng vua hối hận, cho mang 60.000 đồng tiền vàng chở đến ban cho nhà thơ, nhưng xe vàng vừa vào thì xe tang bước qua – kết luận lại về số phận Sekandar rằng: vị vua ấy đã giết 36 vị vua khác, lập nên 10 thành phố thịnh vượng, nhưng giờ chúng đều thành lau sậy. Nhưng rồi thì ông còn lại gì? Chẳng còn gì ngoài ngôn lời về ông. “Ngôn lời là phần tốt đẹp hơn cả, vì chúng không mục nát như một tòa nhà cũ nát dưới mưa tuyết và thời gian.” Mọi hiện hữu vật lý đều qua đi, những câu chuyện thì còn lại, và luôn tiếp diễn.

Kể cả đến ngày tôi sẽ đọc hết Shahnameh, tôi tin sử thi ấy vẫn không kết thúc. Nó vẫn tiếp tục, trong những dạng thức khác, và tôi vẫn có thể đọc tiếp nó, qua những sáng tạo phái sinh. Tôi nhớ Italo Calvino từng có một tiểu luận về ngọn lửa trong một đền thờ Bái Hỏa giáo đã cháy trường suốt 1300 năm, và cháy bí mật kể cả khi Hồi giáo thống trị, tức là từ trước cả khi Ferdowsi sáng tác Shahnameh. Ngọn lửa trường tồn chưa từng tắt, đại diện cho một sức mạnh thuần khiết. Liệu đó có phải cùng ngọn lửa mà những vị vua vĩ đại Ba Tư trong thiên sử thi kia đã phụng thờ? Khi nhìn ngọn lửa ấy, Calvino viết: “Thời gian giống như lửa: lúc bùng lên dữ dội, lúc âm ỉ trong quá trình cháy đen chậm chạp của các thời đại, lúc lại phóng đi theo những đường chớp bất ngờ — nhưng luôn hướng đến một đích duy nhất: thiêu rụi mọi thứ và tự bị thiêu rụi.” 

Đến tận cùng thời gian, ngọn lửa mới tự thiêu rụi chính mình. Và nếu các vị mobet có thể gìn giữ ngọn lửa không tắt, thì tại sao ta phải tin không thể giữ gìn được câu chuyện dài ra mãi mãi.

Mặc dù “ngẫm hay muôn sự tại trời”, nhưng Ferdowsi hay Nguyễn Du cũng không bao giờ bỏ qua ý chí tự do của con người. Các vị vua của Ferdowsi dặn người kế nhiệm phải luôn giữ gìn công chính, làm điều thiện lành, vì cái đó nằm trong tầm tay của ta; cũng như Nguyễn Du nói “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Dù Định mệnh đã xếp đặt trước hết cho mỗi người, ta cũng vẫn không ngừng cố gắng. Cái chết không đồng nghĩa với hư vô, không bao giờ.□

Bài đăng Tia Sáng số 24/2025

Tác giả

(Visited 14 times, 14 visits today)