Thế giới của Síu Phạm

Ngoài 60 tuổi mới làm phim đầu tay và những tưởng bộ phim đó sẽ là cái kết thi vị cho “cơn cuồng” điện ảnh bao năm của Síu Phạm, nhưng hai năm sau, bà lại trình làng bộ phim thứ hai, đưa mình trở thành một hình mẫu nhà làm phim độc lập độc đáo.

Điểm chung ở hai bộ phim của Síu Phạm là kinh phí khiêm tốn và chỉ sử dụng diễn viên nghiệp dư cùng những chiếc máy quay bán chuyên nghiệp so với loại thường được dùng để quay phim chiếu rạp.

Bộ phim đầu tay “Đó… hay đây” miêu tả một ngày của cặp vợ chồng già sống đời hưu trí nơi ngôi làng chài nhỏ miền Trung Việt Nam. Người chồng ngoại quốc, do diễn viên Jean-Luc Melo – chồng của Síu Phạm – thủ vai, vẫn thấy xa lạ với đời sống trên quê hương vợ. Ông dậy sớm để chuẩn bị bữa sáng. Đứng trước gương, ông cầm cây vỹ của violin, vờ kéo trên dây đàn tưởng tượng là đường gân cổ. Một hình ảnh vừa nghịch ngợm vừa buồn bã.

Xuyên suốt bộ phim là hình ảnh những cơ thể dù không tươi trẻ nhưng vẫn đầy ham muốn. Síu Phạm từng chia sẻ, bộ phim của mình là câu chuyện về ước ao được tiếp tục đời sống tình dục hào hứng như khi còn trẻ, bên cạnh ước ao được tự do lựa chọn cái chết khi tuổi già ập đến. Chỉ có trong tay chiếc máy quay ống kính liền thân, tiêu cự cố định, đạo diễn chọn cách quay những cảnh dài, cỡ cảnh rộng với những dàn dựng mang dấu ấn của nghệ thuật trình diễn, hay của những màn bơi nghệ thuật…

Thỉnh thoảng bộ phim còn được dựng chèn vào những thước phim nhật ký – video diary – một thể loại của phim tài liệu. Sự đối thoại giữa các thể loại hư cấu và phi hư cấu làm trào dâng những hình ảnh giàu sức gợi mở. Với nghệ sĩ tiên phong, làm phim còn là để đề xuất những cách mới tìm hiểu sự bay bổng, ngao du của trí tưởng tượng ở con người. “Đó… hay đây” chính là cái nháy mắt với nền điện ảnh Việt Nam lâu nay bám chặt vào chủ nghĩa hiện thực.


Síu Phạm sinh năm 1948, từng học Lịch sử nghệ thuật, Phân tích phim ảnh ở Đại học Genève, và tham gia một số khóa đào tạo diễn viên cũng như lớp viết kịch bản. Từ năm 1990, sau khi học xong ngành diễn viên sân khấu và nghệ thuật múa Butoh (Hắc vũ), bà làm việc ở Genève với tư cách đạo diễn kịch hình thể hiện đại.

Bộ phim đầu tiên mang nhiều dấu ấn tự truyện, tưởng chừng là cái kết thi vị cho tình yêu lúc xế chiều và cơn cuồng điện ảnh bao năm của vợ chồng Síu Phạm nhưng sau hai năm âm thầm đơn độc thực hiện, nữ đạo diễn lại mang đến một bộ phim mới, “Căn phòng của Mẹ”. Nếu bộ phim đầu tay, Síu Phạm kết hợp với một hãng phim tư nhân ở Việt Nam (HK Film) thì ở bộ phim này, bà hoàn toàn độc lập trong khâu sản xuất.

“Căn phòng của Mẹ” theo chân những người vô danh để khám phá một Sài Gòn ồn ào và đang biến đổi từng ngày. Máy quay được sử dụng là loại cơ động dành cho phim tài liệu, có thể quay trong tình trạng thiếu sáng, với nhiều loại ống kính khác nhau để bảo đảm chất lượng hình ảnh. Bà đã quay cả bộ phim mà không cần sự hỗ trợ của ngọn đèn chuyên dụng nào, phần lớn là ánh sáng tự nhiên, một điều quá sức mạo hiểm cho phim truyện. Nhưng dường như chỉ có sự tối thiểu đó mới đủ khả năng lột tả chủ đề con người choáng váng, kiệt quệ trong vòng xoáy mưu sinh ở đô thị.

Bộ phim không có quá nhiều hành động, rất nhiều hình ảnh được lặp đi lặp lại có chủ đích và vẫn giữ được giọng điệu vui đùa, hóm hỉnh. Đạo diễn còn khiến bộ phim trở nên đa nghĩa hơn với cấu trúc chương hồi được bắt đầu ở những điểm nhìn khác nhau, và thỉnh thoảng một người lạ mặt hóa trang thành tên hề – thêm một vai diễn ấn tượng của Jean-Luc Melo – để đối thoại với người xem. Tiêu đề các chương hồi xuất hiện trong khung tranh – Món quà, Giận dữ, Công việc, Kiểm soát, Mong manh, Chuyên môn, Cầu Trời Phật giúp, Bạn bè giúp đỡ, Tự thú, Thành công – không phải là chỉ dấu cho một cấu trúc ổn định cụ thể. Với một cốt truyện giản dị như thế, người xem hoàn toàn có thể tái cấu trúc bộ phim theo cách của riêng mình.

Về mặt âm thanh, “Căn phòng của Mẹ” tạo hiệu ứng bằng sự câm lặng của người mẹ già, giọng nói yếm thế của người đàn ông trung niên làm công việc nhàm chán, sự trẻ trung bất cần của đứa con chuyên beatbox (dùng khẩu thuật để tạo nên nhịp trống, giai điệu, hay sự mô phỏng các loại hình âm thanh) khi nói chuyện, âm thanh lào khào bất lực của người vợ… và nhiều thứ âm thanh hỗn loạn không ngừng nghỉ khác. Cũng như bộ phim trước, những đối thoại, những cái nhìn né tránh lọt thỏm trong bầu không khí viễn tưởng vây quanh các nhân vật.

Với cấu trúc đặc biệt như vậy, cách đạo diễn quay bộ phim cũng phong phú hơn bộ phim đầu tiên, đặc biệt là những cú máy dài uyển chuyển và kết hợp rất ăn ý với diễn xuất hình thể của diễn viên. Những quang cảnh khác biệt được đặt cạnh nhau gây ấn tượng tương phản mạnh mẽ. Những tòa nhà cao tầng lố nhố, những con mương đen đúa bẩn thỉu, những kênh rạch ngổn ngang đất đá, những đường hầm, cầu ngầm tối thui, được đặt bên cạnh những con đường sáng choang kéo dài bất tận, cảnh đường phố hào nhoáng ngày Tết… mang lại hiệu ứng dồn nén để rồi bùng vỡ, như cảnh tòa cao ốc “nôn ọe” thẳng vào máy quay. Có thể nói, “Căn phòng của Mẹ” mở trong cách tiếp cận nội dung, hình thức, mở trong cách làm phim tối giản, và sở hữu một thứ ngôn ngữ điện ảnh ngẫu hứng, cực đoan.

Qua hai bộ phim liền tay, đạo diễn Síu Phạm đã thể hiện mình như một nhà làm phim độc lập đáng nể. Mỗi bộ phim của bà gọi ra một thế giới khác với thế giới hiện thực, và sự giao thoa của chúng chính là âm vang mang tính thơ ca.

Tác giả

(Visited 19 times, 1 visits today)