Thuyền: Cho dù đã đi hết biển

Sau khi đã đi hết biển, con người sẽ tới được đâu, bờ bến nào đang đợi?

“Thuyền” của Nguyễn Đức Tùng, NXB Phụ nữ ấn hành.

Odysseus đi hết biển thì trở về nhà. Ishmael đi hết biển thành một người kể chuyện. Sinbad đi hết biển thì quyết định nghỉ phiêu lưu, sống bình lặng ở Baghdad. Cả Moses khi dẫn đoàn người băng qua biển Đỏ cuối cùng cũng tới được đất Hứa. Nhưng đó đều là những chuyện huyền thoại, những chuyện sử thi; đó đều là chuyện của những con người nếu không phải anh hùng hay nhà tiên tri thì cũng là những nhà phiêu lưu. Nhưng một con người, một con người bình thường, ra biển chẳng phải vì “có một tháng Mười một mưa bụi ẩm ướt trong tâm hồn”, sau khi đã đi hết biển, người đó sẽ tới được đâu, bờ bến nào đang đợi?

Ai đi ra biển cũng nghĩ rằng, cuối cùng thì biển cũng phải hết chứ, phải có một điểm kết thúc chứ, phải đặt chân được tới nơi nào đó không còn là biển nữa chứ. Dù là Odysseus hay Ishmael hay Sinbad hay người đàn ông không tên dẫn theo người yêu đi ra biển trong tiểu thuyết Thuyền của Nguyễn Đức Tùng (NXB Phụ Nữ, phát hành năm 2025) thì cũng vậy thôi. Ta ra biển vì một tia sáng nào đó của số phận. Từ sông Hậu, đôi tình nhân trốn ra biển trên một chiếc thuyền máy nhỏ cùng một trăm bốn mươi người khác. Cái thuyền đáng chỉ chở được một phần ba. Nhưng bao giờ cũng vậy, số người muốn lên thuyền bao giờ cũng nhiều hơn số thuyền (đến cả thuyền Noah thì đâu thể nào đủ chỗ cho tất cả). Số người mà thế gian có thể ban cho hạnh phúc thì luôn lớn hơn số người mưu cầu hạnh phúc.

Thuyền được tạo thành từ rất nhiều đoản thiên: những đoản thiên xô tới như những con sóng rất khó biết đâu là đầu và đâu là kết; những câu văn dài với hàng chục vế tách nhau bằng những dấu phẩy, nhìn mãi không thấy dấu chấm đâu, những câu văn ấy dài như biển cả (mà thơ Emily Dickinson từng viết “Những Khoảng thời không của Biển— / Bờ bến nơi nào, đâu ai từng biết— / Biển tự mình là Rìa của Biển— /Những điều ấy chính là—Bất diệt—”); những dòng ý thức tuôn ra, trật tự thời gian tiến lui liên tục giữa quá khứ – hiện tại – tương lai – hiện tại – quá khứ như những dòng hải lưu đan cài, những vùng xoáy nước cuốn ta trôi đi thật xa, ta càng cố bơi ngược lại thì ta lại càng cuốn đi theo sóng; và những câu văn rất đẹp, đẹp và kỳ bí, đôi khi đọc một hồi ta không còn nhớ nổi chủ ngữ ở đâu, vị ngữ thế nào rồi, ta lạc vào một chuỗi những bổ ngữ và những mệnh đề phụ, như một người hải hành say sóng và bị ảo giác đánh lừa. Thứ văn chương ấy đến từ chỗ nào?

Nhân vật “tôi”, người ra biển, người kể chuyện, viết rằng, văn chương đến từ chính những ngày lang bạt tuyệt vọng trên biển ấy. Sau khi đã bị bọn cướp biển đoạt đi tất cả, anh “một mình giữa đám đông rách nát” trên sàn thuyền, và bao nhiêu bài thơ ngày xưa trở lại với anh trong cơn sốt, “nhờ ngôn ngữ văn chương, tôi trở thành một người khác, đau đớn hơn, hạnh phúc hơn, bao dung hơn, nhờ ánh sáng của ngôn ngữ”. Những bài thơ trong đầu anh có lẽ là những thứ duy nhất mà sự độc ác của bọn cướp biển và sự nổi giận của bão biển hay sự mù lòa của cơn đói khát cũng không lấy đi được. Thơ ca. Ngôn ngữ. Văn chương. Có gì đó thật tréo ngoe khi những thứ cao cả và rộng lượng ấy là thứ duy nhất có thể chở những tội ác phi nhân nhất, những khổ đau man dã nhất.

Thơ ca. Ngôn ngữ. Văn chương. Có gì đó thật tréo ngoe khi những thứ cao cả và rộng lượng ấy là thứ duy nhất có thể chở những tội ác phi nhân nhất, những khổ đau man dã nhất.

Những trắc trở trong mười năm phiêu dạt của Odysseus – những người khổng lồ một mắt, bài hát của những tiên cá ranh mãnh, quát vật sáu đầu, hòn đảo của Calypso – nếu có thể hầu đồng mà gọi Odysseus trở dậy để kể lại những gian khổ ấy với một trăm bốn mươi con người trên chiếc thuyền từ bến Ninh Kiều kia, thì người anh hùng Hy Lạp chắc cũng có vẻ nực cười. Như thế đã gọi là gian khổ ư? Ít nhất thứ mà Odysseus chống lại chỉ là quái vật, chỉ là ý muốn của thần thánh, chứ chẳng phải là đồng loại hay nỗi hổ thẹn, nỗi tủi nhục của chính mình. Thần Zeus nói gì trong sử thi Odysseus? Thần bảo: “Hãy xem những kẻ phàm trần luôn đổ lỗi cho các vị thần! Chúng coi bọn ta là nguồn cơn tội ác trong khi chính sự điên rồ của chúng mới khiến nỗi khổ đau vượt xa mức đáng có.”  Một trăm bốn mười người vượt biển trong Thuyền, khi bất lực đứng im nhìn vũ điệu satan của đám cướp biển Thái Lan với những người đàn bà bị chúng lột trần và bắt đi, hẳn sẽ làm chứng cho thần.

Không phải thần, con người là nguồn cơn của tội ác. Trong thế giới ấy, nếu người ta không bị giết bởi cướp biển hay bão tố hay bệnh sốt rét hay cá mập, người ta có khi cũng sẽ phải tự giết mình. Vậy thì cái gì khiến cho người ta sống? Một lần nữa, lại là vì con người. Con người độc ác quá, nhưng con người cũng đẹp đẽ quá. Dường như càng độc ác bao nhiêu thì con người lại cũng càng đẹp đẽ bấy nhiêu. Ai, nếu chẳng phải con người đã trao nhau một chiếc dép lê để đứa bé con chết trên biển được xỏ vào một cái gì lành lặn? Ai, nếu chẳng phải con người đã mở lên một bản nhạc của Thái Thanh ở trại biên giới như một tín hiệu ta phát ra ngoài vũ trụ để triệu năm sau có kẻ nhận ra? Ai, nếu chẳng phải con người đã viết nên The Brothers Karamazov bằng tất cả sự vô vọng của mình; và ai, nếu chẳng phải một người đã mua cuốn sách ấy, để quên, cho một ai đó nhặt lấy, và vô tình cứu rỗi sự vô vọng của anh ta? Ai, nếu chẳng phải con người đã nhìn lũ cá heo và lũ chim biển, cảm nhận vẻ đẹp lộng lẫy vượt lên khỏi thiện ác tốt xấu của chúng? Ai, nếu chẳng phải con người đã lén mang đến những trái dưa hấu của lòng thương xót cho những kẻ bị bạo hành trên biển? Ai, nếu chẳng phải con người đã khiêng chiếc quan tài của một người nữ tu trên vai trong một buổi chiều sau khi cơn mưa vừa tạnh trong tiếng Amen và tiếng niệm Phật lẫn lộn của đám đông? Ai, nếu không phải con người, đã quyết cứu bàn tay của chính mình, cái bàn tay của một cuộc đời mà mình ngỡ như chẳng còn gì đáng chờ đợi ở phía trước, chỉ vì tin bàn tay ấy là bàn tay của người con gái mình đã yêu và đã mất? Ai, nếu không phải con người, đã viết ra câu chuyện này, một câu chuyện được kể  bằng thứ ngôn ngữ đẹp trùng trùng điệp điệp, đẹp đến mức ta ước gì nó đừng tồn tại, ta ước gì câu chuyện ấy không kinh khủng đến thế để buộc người ta phải vươn đến một thế giới tuyệt vời đến vậy của ngôn từ, vì chỉ sự tuyệt vời ấy mới tương xứng với sự khủng khiếp nhường này, để mà giữ cho mình còn sống, còn hy vọng.

Văn chương trong Thuyền đan dệt vô vàn những phép so sánh. Ký ức sáng lên như những tế bào ung thư tuỷ xương sáng lên trên màn hình; cái nắm tay của người con gái sắp biệt ly như một nhành thông tươi gãy ngang kêu răng rắc;  giàn khoan như ngọn núi thiêng trong cổ tích; thân xác một người treo cổ nhẹ như một ý tưởng, như một tấm màn ngăn cách hai thế giới mà người sống chẳng thể đi qua để thấy được bên kia… Những so sánh nhảy cóc qua những thế giới ấy dường như chính là những cuộc vượt biên, những cuộc đào tẩu bằng ngôn ngữ, bởi nếu không ra vào giữa hai thế giới – thế giới của tâm tưởng và thế giới của hiện thực – thì rất khó sống với thế giới của hiện thực. Phép so sánh như một bè cứu sinh, không chỉ là một phép tu từ hay “literary devices” hay phương tiện văn chương nữa, mà là phương tiện sinh tồn, phương tiện sống. Nhân vật cứ thường xuyên phải thoát ly khỏi thực tại một lát bằng cách lần mò về quá khứ, phải len lỏi vào sự chiêm ngắm những đàn cá bay trên mặt nước, phải lần mò vào cõi khác qua những đường chỉ tay và qua những cô đồng, cũng như phải lần mò vào Dostoevsky, vào thơ, vào dòng ý thức, vào những phép so sánh, để băng qua phía bên kia của biển.

Nhân vật sau cùng đã đi hết biển. Nhưng Đất Hứa ở đâu? Bờ bến chỗ nào? Có con cá khổng lồ nào bị khuất phục hay chăng? Nàng Penelope nào may áo chờ ta trở lại? Đến được đất liền có phải là đã đến đích không, khi mà những ngọn thủy triều ký ức vẫn đều đặn lên xuống, có khi rút đi khiến ta thấy cuộc đời mới mở ra, có khi dâng lên lại nhấn chìm con người trong dằn vặt và thương nhớ. Odysseus, Sinbad, Ishmael, Moses đi hết biển là đi hết biển. Còn những con người vô danh kia, biển với họ có bao giờ hết? Và cho dù có đi hết biển…

Bài đăng Tia Sáng số 12 năm 2025

Tác giả

(Visited 23 times, 23 visits today)