Tôi đi tìm tiếng nói

Trên cánh đồng văn chương hiện đại Việt Nam, Thanh Tâm Tuyền cho đến nay, vẫn là một quả núi, đột khởi, sừng sững, gây kinh ngạc. Bởi, với những cấu trúc bị xô lệch, những nhịp điệu bị trôi chảy..., thơ ông đã đạt tới văn chương hiện đại chủ nghĩa giai đoạn cuối.

   Sinh năm 1936, Thanh Tâm Tuyền thuộc một thế hệ nhà thơ khác với các nhà Thơ Mới về tuổi đời. Và, do đó, quan trọng hơn, khác về học vấn và trải nghiệm. Nếu các nhà Thơ Mới tiếp xúc với văn học châu Âu chủ yếu qua “bộ lọc” nhà trường Pháp – Việt và dừng lại ở cuối thế kỷ XIX, còn có ai đó trèo sang thế kỷ XX thì ít nhiều cũng đã hụt hơi: đọc mà không hiểu, hoặc hiểu mà không thấm, thì Thanh Tâm Tuyề̀n tiếp nhận nghệ thuật phương Tây trực tiếp và đồng thời, nên nhờ thế, tự do và sáng tạo(1). Nếu các nhà Thơ Mới trải nghiệm cuộc sống một cách thi ca trên bình yên các trang sách, thì Thanh Tâm Tuyền sống một cuộc sống văn xuôi của cuộc kháng chiến, của chia cắt đất nước, của tranh giành quyền lực. Giữa họ, quả thực là một đứt đoạn lớn. Trước, ở nhận thức thực tại. Sau, ở nghệ thuật.

Tôi đi tìm tiếng nói
cho cổ họng của tôi

   
    Thanh Tâm Tuyền

Ở tuổi hai mươi, năm 1956, Thanh Tâm Tuyền cho in tác phẩm thơ đầu tiên của mình, có nhan đề như một tuyên ngôn: Tôi không còn cô độc. Có lẽ, cô độc là một đặc sản của cái tôi nguyên tử luận Thơ Mới. Một cái tôi đối diện, đúng hơn đối đầu, với thực tại. Cái tôi Thơ Mới này, sau khi đã lên tới thiên đỉnh, Ta là Một, là Riêng, là thứ Nhất, với Xuân Diệu, không chịu nổi cô độc, nên đã tìm về với các bọc trăm trứng của cộng đồng: một thời tiền sử hòa đồng, những thiên đường nhân tạo liên/xuyên cá nhân, để đến 1945, thì hòa mình vào cái ta xã hội, cái ta dân tộc. Nhưng Tôi lại là sự chống lại chủ nghĩa tập thể núp danh cộng đồng, dân tộc, lại là sự đề cao cá nhân đích thực. Thanh Tâm Tuyền của Tôi không còn cô độc không còn là sự đối lập giữa tôi và thực tại, tôi đối đầu với thế giới, mà là sự lơ lửng giữa tôi và thực tại, tôi kiến tạo nên thực tại, tôi thực tại.

Trong văn chương hiện đại, cái tôi bao giờ cũng trình hiện như là một yếu tố kiến tạo thế giới. Bởi thế, cái mới thơ Thanh Tâm Tuyền, trước hết, là sự chủ thể hóa thực tại được cái tôi đa ngã thực hiện. Đa ngã không phải do cái tôi nhất nguyên rã ra thành những bộ phận độc lập. Hay một kiểu tự sinh bằng cách sao lại chính bản thân mình. Càng không phải sự phân thân. Mà đa ngã do đa thể. Con người vốn đa nguyên. Không chỉ ngoài con người có con người, mà quan trọng hơn, trong con người còn có con người. Tôi là người là một người khác (“Đừng bắt tôi từ biệt”). Cái người khác ấy nhiều khi xa lạ với chính tôi, với chính sự hiểu biết của tôi. Nó đến từ những cơ tầng khác.

Hồn là một khởi nguyên tinh thần. Xác là khởi nguyên sinh học. Hồn, xác hòa hợp thì con người trùng khít với bản thân, có sự khỏe mạnh của cái cây, tảng đá. Ở Thanh Tâm Tuyền thì hồn và xác thường lìa nhau, tạo ra những cái tôi khác nhau. Tôi luôn nhìn, và nhìn thấy, thể xác tôi bị đau đớn, chảy máu, thậm chí bị đâm chém, một cách dửng dưng.

Vứt mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông
Mà lòng mình phơi trên kè đá
Con thuyền xuôi
Chiều không xanh, không tím, không hồng
Những ống khói tàu mệt lả

(Bao giờ)

Đặc biệt, thể xác ấy còn tồn tại bằng những bộ phận cơ thể, với tư cách là những thành phần độc lập, như ngực (Những ngực thương nhau/không áo – “Cỏ”), mặt (Khuôn mặt vỡ tan/Như cẩm thạch/Như nước mắt/ Như muôn đời – “Đêm”; Em sẽ/ nhìn mặt người yêu mình là mặt cô đơn – “Nguyên”), rồi bàn tay, môi, mắt...

Nhưng, có lẽ, đặc sắc hơn cả, ở Thanh Tâm Tuyền, là tên và tôi. Cái tên và cái tôi, tự nguồn, vốn là một. Tư duy nguyên thủy cho rằng, cái tôi nào thì phải mang cái tên ấy. Tên và tôi, do vậy, quy định nhau, vận vào nhau, trở nên đồng nhất. Nhưng dần dần, với sự phát triển của xã hội, cái tên tách biệt khỏi cái tôi, trở thành một thực thể độc lập, tự thân. Cái tên tôi giữa phố, phố vắng và cái/ tên âm lên sự thù hằn (“Đêm”); Có ai gọi tên tôi giữa phố, phố hoảng sợ/ cái tên lăn như một xác chết nhập hồn. Tôi/ dừng lại níu giữ lấy đêm tối: để cho tôi/ yên, đồ khốn kiếp tôi không phải cái tên… (“Đêm”). Tên trở thành một ký hiệu, một căn cước rỗng, chỉ thuận tiện cho việc giao thông xã hội. Ở Thanh Tâm Tuyền, cái tên, thậm chí chỉ còn là cái xã hội bám đầy rong rêu của các nguyên tắc, định chế luôn tra xét, đe dọa cái tôi bản năng, tự do, sáng tạo.

Tôi buồn khóc như buồn nôn
ngoài phố
nắng thủy tinh
tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
thanh tâm tuyền
buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường
tôi xin một chỗ quỳ thầm kín
cho đứa nhỏ linh hồn
sợ chó dữ
con chó đói không màu

tôi buồn chết như buồn ngủ
dù tôi đang đứng trên bờ sông
nước đen sâu thao thức
tôi hét tên tôi cho nguôi giận
thanh tâm tuyền
đêm ngã xuống khoảng thì thầm tội lỗi
cô bé quàng khăn đỏ ơi
này một con chó sói
thứ chó sói lang thang
tôi thèm giết tôi
loài sát nhân muôn đời
tôi gào tên tôi thảm thiết
thanh tâm tuyền
bóp cổ tôi chết gục
để tôi được phục sinh

từng chuỗi cuộc đời tiếp nối
nhân loại không tha thứ tội giết người
bọn đao phủ quỳ gối
giờ phục sinh
tiếng kêu là kinh cầu
những thế kỷ chờ đợi

tôi thèm sống như thèm chết
giữa hơi thở giao thoa
ngực cháy lửa
tôi gọi khẽ
em
hãy mở cửa trái tim
tâm hồn anh vừa sống lại thành trẻ thơ
trong sạch như một lần sự thật

(Phục sinh)

Như vậy, những cái tôi thơ Thanh Tâm Tuyền, với một vài đơn cử trên, là những thực thể tự thân, luôn tranh đấu, giằng xé (Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ… tôi hét tên tôi cho nguôi giận… tôi gào tên tôi thảm thiết), thậm chí chém giết nhau (bóp cổ tôi chết gục/ để tôi được phục sinh) trong cuộc đối thoại/đối đầu miên tục. Con người hiện đại, vì thế luôn tự mâu thuẫn và cũng vì thế, luôn tự thay đổi. Thay đổi mà vẫn thống nhất.

Ngôn ngữ thơ Thanh Tâm Tuyền để tương ứng với một thực tại vỡ vụn, rời rạc, cũng trở nên rời rạc, vỡ vụn. Thi nhân tước bỏ hầu hết những từ nối, từ gối, từ cú pháp, khiến mạch liên kết giữa chữ và chữ bục đứt, các từ rời ra. Thi nhân cũng lược bỏ các ý chuyển tiếp, các hình ảnh chuyển tiếp, khiến mạch câu, đoạn bị đứt gãy đột ngột, bất ngờ. Như vậy, các từ, các cụm từ, các câu, các hình ảnh, các ý tưởng rời nhau, trở thành những đơn vị độc lập, tự thân, đứng cạnh nhau một cách ngẫu nhiên, tự sắp xếp với nhau hoặc liên hệ với nhau một cách tình cờ.

1

hồn thảo mộc giấc ngủ
nằm mơ những ngôi sao mặt trăng
lá đan mắt ngõ
hôn vào môi vào má vào răng
những lời thơ rất cũ
gõ cửa trái tim nàng

2

mùa hè lên tiếng cười trong bàn tay nước suối
mùa tóc mun
đẹp những khu rừng không bóng cây

3

em hoàng hôn trút áo
ngực gọi đêm về
vẫn còn đồi đá sỏi
cần lửa hôn gót chân
hành động tàn nhẫn
sao vỡ trên môi

(Mai)

Đau khổ vì sự tan vỡ của thực tại bề ngoài, Thanh Tâm Tuyền đi tìm sự bền chắc, sự nhất thể ở thực tại bề sâu. Bởi thế, thơ ông có cấu trúc ở mọi cấp độ. Ở cấp độ tập thơ, Tôi không còn cô độc và Liên – đêm – mặt trời tìm thấy, thoạt đọc, tưởng chỉ là những tập hợp tình cờ. Các bài thơ như ngẫu nhiên được đưa vào tập, ngẫu nhiên đứng cạnh nhau, và vì thế, ngẫu nhiên phát ra những thông điệp chẳng ăn nhập gì với nhau cả. Thanh Tâm Tuyền là một trong không nhiều nhà thơ có cấu trúc tập. Độc đáo Thanh Tâm Tuyền là cả hai tập thơ của ông, Tôi không còn cô độc và Liên – đêm – mặt trời tìm thấy, không có bố cục mà lại có cấu trúc. Chính cấu trúc, như một trung tâm tạo nghĩa, đã tạo ra một lực hướng tâm mạnh mẽ thu hút, sắp xếp những bài thơ tản mạn, thậm chí đối nghịch nhau, ở Thanh Tâm Tuyền, thành một chỉnh thể, một tổng thể chiều sâu.

Lực hướng tâm thơ Thanh Tâm Tuyền, trước hết, là sự nhất quán của tư tưởng sáng tạo và quan niệm nghệ thuật. Sáng tạo, theo Thanh Tâm Tuyền, là sự nổi loạn. Bởi lẽ, sáng tạo không phải là chống lại cái giả dối, cái cũ, mà chống lại cái sự thật hôm qua nay đã thành giả dối, cái mới hôm qua nay đã thành cái cũ. Cái giả dối này, cái cũ này, vì thế vẫn còn là máu thịt của máu thịt chúng ta, vẫn còn hết sức thân thiết với trái tim chúng ta. Sự chống lại trái tim của đầu óc này là khởi nguồn của bi kịch. Nhưng, theo Nietzsche, “Sự khai sinh của bi kịch là một cuộc đảo hoán mọi giá trị đầu tiên”(2). Như vậy, chống lại nghệ thuật tiền chiến, nhất là Thơ Mới, Thanh Tâm Tuyền đã chống lại chính Thanh Tâm Tuyền một thời… Nhưng là một người sống sáng tạo, lấy sáng tạo làm lẽ sống, nhà thơ coi thường vết thương rỉ máu của mình để đến với nghệ thuật mới.

Cấu trúc thơ Thanh Tâm Tuyền là cấu trúc mở, hay cấu trúc động. Nghĩa là, nó có một lực ly tâm, cũng mạnh mẽ không kém gì lực hướng tâm, khiến cho cấu trúc vốn chặt chẽ, cân đối, hài hòa trở thành xộc xệch. Tập thơ không có bố cục. Bài thơ câu dài ngắn, tồn tại như những khả thể, đằng sau bài thơ được hiện hữu ấy còn thấp thoáng, ẩn khuất những bài thơ khác ở dạng tiềm/tiền sinh. Câu thơ thì chảy tràn từ dòng trên xuống dòng dưới như những chiếc đồng hồ Dali. Còn từ thì luôn vượt thoát hấp lực của trường ngữ nghĩa nguyên thủy, do “trung tâm tạo nghĩa” sinh ra, để lang thang trong không gian bên ngoài cấu trúc tìm nghĩa mới.

Tôi biết những người khóc lẻ loi
không nguôi một phút
những người khóc lệ không rơi ra
                                   ngoài trái tim mình
em biết không
lệ là những viên đá xanh
tim rũ rượi
đôi khi anh muốn tin
ngoài đời chỉ còn trời sao là đáng kể
mà bên những vì sao lấp lánh đôi mắt em
đến ngày cuối

đôi khi anh muốn tin
ngoài đời thơm phức những trái cây
                                             của thượng đế
mà bên những trái cây ngọt ngào đôi môi em
nguồn sữa mật khởi đầu

đôi khi anh muốn tin
ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em
vòng ân ái
ôi những người khóc lẻ loi một mình
đau đớn lệ là những viên đá xanh
tim rũ rưỡi.

(Lệ đá xanh)

Thanh Tâm Tuyền khẳng định thơ hôm nay phải là thơ tự do, là thứ thơ “không gieo vần lối đồng âm đồng thanh, vần của nó là vần ẩn giấu cách xa (có thể đi tới khác âm nghịch thanh), nhịp điệu của nó là sự phối hợp của một toàn thể không khuôn vào một số câu nhất định khiến cho hơi thơ tự do dễ kéo dài hơn các hơi thơ khác”. Nghệ thuật, nhìn chung, ra đời trong gò bó và chết trong tự do. Bởi thế, bỏ vần điệu phải tìm đến nhịp điệu. Một thứ tự do của vũ nữ ballet di chuyển bằng một chân trên sàn diễn. Thanh Tâm Tuyền cũng nói đến nhịp điệu của hình ảnh. Vì lẽ, thơ ông động đến mạch nguồn vô thức, mà vô thức thì “nói” bằng hình ảnh. Nhưng thi nhân cho rằng cùng với nhịp điệu của hình ảnh còn có nhịp điệu của ý tưởng. Và, cả hai thứ này đều được sinh ra từ nhịp điệu của ý thức. “Một bài thơ hôm nay nếu thành công, tôi nghĩ, nó sẽ đạt tới một thứ nhạc khá mới lạ không phải chỉ là sự hòa hợp đơn thuần của bằng trắc mà còn ở trong sự chứa đựng của tiếng nói, của hình ảnh, của ý tưởng biểu diễn qua một ý thức sáng suốt, tự do vươn tới sự thống nhất trong khi phải trải qua sự chia xé mãnh liệt”. Như vậy, nhịp điệu thơ Thanh Tâm Tuyền là một phức điệu của tinh thần tự do, của ý thức tự do, nhưng là một tự do vươn tới sự thống nhất. Chính điều này khiến ông, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, chọn cho mình một nghệ thuật khác.

Nghệ thuật khác đó được Thanh Tâm Tuyền gọi là nghệ thuật Dionysos. Thứ “nghệ thuật phá vỡ những hình thức có sẵn, hỗn loạn trong niềm cảm xúc, một nghệ thuật của say sưa, một vẻ đẹp hãi hùng…, nghệ thuật bắt nguồn từ một nhân sinh quan bi thảm, đắm chìm trong khổ đau, không bao giờ chịu chấp nhận”. Từ nghệ thuật Apollon của Thơ Mới đến nghệ thuật Dionysos của thơ Thanh Tâm Tuyền là một chuyển đổi hệ hình tư duy thơ Việt Nam: từ tiền hiện đại sang hiện đại, từ nghệ thuật tìm kiếm cái đẹp, nhất là cái đẹp vĩnh cửu, sang nghệ thuật tìm kiếm cái cao cả, cái siêu tuyệt.

Không dada, không siêu thực
thẳng thắn
khởi từ ca dao sang tự do
                    (Một bài thơ)

Trên cánh đồng văn chương hiện đại Việt Nam, Thanh Tâm Tuyền cho đến nay, vẫn là một quả núi, đột khởi, sừng sững, gây kinh ngạc. Bởi, với những cấu trúc bị xô lệch, những nhịp điệu bị trôi chảy…, thơ ông đã đạt tới văn chương hiện đại chủ nghĩa giai đoạn cuối. Mà chủ nghĩa hiện đại hậu kỳ, nếu chỉ nhìn ở bề ngoài, thì rất giống với chủ nghĩa hậu hiện đại sơ kỳ. Khác chăng chỉ ở thái độ đối với sự đổ vỡ của thực tại biểu kiến: một đằng thì tiếc thương, khóc than, và đi tìm một thực tại khác, vĩnh cửu hơn, còn đằng kia thì hài hước, vui vẻ tiễn đưa “người cha nguyên thủy đại tự sự”, và chấp nhận tình trạng đa thế giới, đa sự thật…, Một thứ “chủ nghĩa đa đa” khác. Thơ Thanh Tâm Tuyền, với nỗi buồn sâu thẳm, với sự hốt hoảng và sự cuồng nộ của nó, vẫn nằm trong phạm trù văn chương hiện đại chủ nghĩa. Thi nhân, vì thế, nhường bước cho một thi nhân khác dài hơi hơn, Bùi Giáng, người thực sự bước chân vào văn chương hậu hiện đại Việt Nam.

(1) Về Thanh Tâm Tuyền, Đặng Tiến viết: “Ông du nhập nghệ thuật phương Tây bằng cách đọc trực tiếp, không kinh qua trường học Pháp thuộc như các nhà văn, nhà thơ lúc trước. Ảnh hưởng phương Tây do đó có tính cách trực tiếp, tự do và sáng tạo”. Vũ trụ thơ II, Thư Ẩn Quán, Mỹ, 2008, tr. 95

(2) Friedrich Nietzsche, Buổi hoàng hôn của những thần tượng (Nguyễn Hữu Hiệu dịch), Nxb. Văn học tái bản, 2006, tr.187

Tác giả

(Visited 9 times, 1 visits today)