Từ “Anora” đến “Nights of Cabiria”: Chút lòng hy vọng từ sau xin chừa
Bộ phim này không dạy ta cái gì mới cả. Vậy ta còn cần bộ phim này làm gì, khi mà ta biết tất cả những chuyện này rồi?

Điện ảnh không phải một vũ trụ, mà là một đa vũ trụ, và đôi khi trong đa vũ trụ ấy có những cuộc gặp gỡ kỳ lạ, xuyên không–thời gian, những cuộc gặp gỡ chỉ có thể nói là được dàn xếp bởi một lỗ sâu đục. Đó là điều đã xảy ra khi ta xem Anora của Sean Baker và cảnh cuối của nó không thể không khiến ta bị hút vào, hút vào mãi đến khi thấy mình ở đầu bên kia, là cảnh cuối của Nights of Cabiria (1957), một kinh điển của Federico Fellini – những khoảnh khắc của vỡ mộng lúc nào cũng có dáng vẻ không thể khác được.
Cabiria, cô gái bán hoa ở Rome, nhận ra động cơ thực của người đàn ông tưởng như Chúa ban đến cho mình để bù đắp những gì mà Chúa đã lấy đi từ trước, bò dậy từ bên vách vực, đi qua khu rừng, trở về đường cái, nơi những cuộc vui đêm vừa trở dậy, với những chàng giggolo và những nàng giggolette đàn hát, nhảy múa, vui chơi, họ hát Ma La Continua (Nhưng đời vẫn tiếp diễn), Cabiria nhập vào dòng người nhộn nhịp ấy, chỉ một giọt nước mắt lem mascara đen tuyền trên mi mắt cùng một nụ cười, cô đã vừa mất đi tất cả và rồi cô lại trở về đây. Còn Anora, vũ nữ thoát y ở New York, vừa bước ra khỏi ngôi nhà bề thế của gia đình oligarch, cô những tưởng mình sẽ thuộc về, trong chiếc xe hơi ọp ẹp, gục vào lòng một anh chàng tay sai người Nga cùng thân phận mà cô đã căm ghét và khinh bỉ, cũng rơi một giọt nước mắt, bên ngoài trời mưa, cô cũng vừa mất đi tất cả và rồi trở về nơi từ đó cô đến.
Hai cảnh phim ấy: một cảnh đặt trong không gian ngoại, thênh thang, rộng lối, rộn ràng, tiếng đàn sáo dập dìu; một cảnh đặt trong không gian nội, chật hẹp, chen chúc, côi cút, chỉ có tiếng mưa đập lên cửa kính cùng tiếng đều đặn của cần gạt nước. Chúng đối xứng nhau, nhưng đối xứng qua cùng một gốc toạ độ, qua cùng một điểm mốc, và sự đối xứng khiến ta nghẹn ngào, rằng dù cho ý đồ dàn cảnh, ý đồ thẩm mỹ khác nhau, dù cho không gian được mở ra hay đóng lại, dù điều gì được đặt vào con mắt của máy quay, thì có một thứ vẫn không thay đổi, qua gần 70 năm và có lẽ 700 năm sau cũng thế thôi, nếu ngày đó còn điện ảnh: sự tan vỡ của con người.
Anora càn quét những giải thưởng quan trọng nhất của Oscar 2025 như thể đây là một tuyệt tác. Anora không phải tuyệt tác (còn xa nó mới bằng được Nights of Cabiria): không có tầm vóc, không quá ấn tượng, không có những ý tưởng lạ lùng, thậm chí cũng không hay từ đầu tới cuối – nhiều người bỏ ngang giữa chừng khi xem phim, và không ai có thể trách họ. Nhưng với những ai xem tới cảnh cuối cùng thì việc chọn Anora, tưởng vô lý, lại rất có lý. Nói như Roger Eberts thì điện ảnh không phải bộ môn giỏi lý luận trí tuệ, triết học hay chính trị. Nghĩa là, điện ảnh không giỏi lý sự. Chúng ta xem phim vì phim là một thác xúc cảm. Theo lẽ đó thì Anora là một bộ phim rất phim: phim làm ta khóc, và nó không hổ thẹn hay ngại ngùng dẫn ta vào một vùng bi luỵ, sến súa, nức nở, nghẹn ngào, mua nước mắt – những vùng xúc cảm rất bình dân, không duyên dáng cũng không sang trọng.
So với The Substance với một ý tưởng ghê gớm, tất tay, so với The Brutalist một đại cảnh về con người, chiến tranh, nghệ thuật, tư bản, tình yêu, Anora có gì để mà được trao giải kịch bản gốc xuất sắc? Chuyện gái điếm yêu hoàng tử, không có gì mới cả. Chuyện gái điếm yêu hoàng tử và bị hoàng tộc ngăn cản, càng không có gì mới. Chuyện gái điếm yêu hoàng tử và rồi nhận ra mình chỉ là gái điếm, cũng không mới (“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh / Giật mình mình lại thương mình xót xa”). Ai gắt gỏng cho rằng Anora sến và sáo thì cũng được thôi. Nhưng sến và sáo, không phải vì điện ảnh Hollywood giờ đây rặt sến và sáo (dù điều đó cũng không sai), mà vì cuộc đời này bản chất là sến và sáo. Ai có thể chứng minh sai điều đó? Nhân vật Anora biết tất cả từ đầu, hơn ai hết, cô biết chuyện mình cưới người thừa kế duy nhất của một oligarch là một sự kiện rất ảo (hãy nhớ rằng chính cô đã liên tục hỏi Vanya rằng bố mẹ cậu sẽ nghĩ gì khi biết chuyện này). Biết là ảo đấy, nhưng ảo mộng là thứ không thể tự tay dứt bỏ, chỉ có thể chờ đến lúc ảo mộng bị ai đó khác đập vỡ thay ta. Sách giáo khoa dạy, còn sống là phải còn hy vọng, và hy vọng là gì nếu không phải là sự chờ mong rằng cuộc đời không sến và sáo như ta vẫn nghĩ, rằng nó có thể khác đi? Nhưng không, cuộc đời thực sự sến và sáo. Một cậu ấm người Nga thì phải bạc nhược như thế. Một bà mẹ chồng tài phiệt thì phải ghê gớm như thế (có gì mới sao, đến phim truyền hình Hàn Quốc thập niên 2000 cũng có thể dạy ta được điều đó). Khoảng cách giàu nghèo mãi là như thế. Xã hội bất công mãi là như thế. Bộ phim này không dạy ta cái gì mới cả. Vậy ta còn cần bộ phim này làm gì, khi mà ta biết tất cả những chuyện này rồi?
Anora là một bộ phim rất phim: phim làm ta khóc, và nó không hổ thẹn hay ngại ngùng dẫn ta vào một vùng bi luỵ, sến súa, nức nở, nghẹn ngào, mua nước mắt – những vùng xúc cảm rất bình dân, không duyên dáng cũng không sang trọng.
Câu trả lời nằm sẵn trong câu hỏi ấy. Chính vì ta đã biết tất cả những chuyện này rồi nên ta thưởng thức bộ phim này, chứ không phải vì ngược lại. Vì biết rồi, nên khi xem cách Anora giãy giụa đến cùng để thay đổi sự sến sáo của thế giới bằng tất cả những gì cô có – từ âm lượng chói tai đến kho chửi thề tục tĩu, từ sự quỵ luỵ van xin đến cơn giận dữ phỉ nhổ tất cả – và rồi kết cục vẫn là như đã định, ta thấy nực cười (bộ phim không che giấu nó là một hài kịch) và đáng thương, đáng thương và hả hê, hả hê và xót xa, xót xa và đáng đời. Ta không khỏi tránh được cảm giác rằng khi mọi chuyện ngã ngũ trên chuyến chuyên cơ của gia đình oligarch, ta thấy cảnh bẽ bàng của Anora là do cô tự chuốc lấy. Một sự bẽ bàng đáng đời. Và ngay khi cảm xúc ấy khởi lên thì ta biết chính mình, chứ chẳng ai khác, đã nội hóa sự sến và sáo của thế giới này. Cũng những cảm xúc ấy, ta đã có với Calibiri, khi cô bán đi ngôi nhà và tài sản với cái giá bèo bọt bởi đang chìm đắm trong mơ mộng về một tương lai mới với người đàn ông sẵn sàng cưới mình. Ta lập tức tin ngay, lại một kẻ ngốc vấp trăm lần vẫn không chịu chừa, và rồi có phải chính niềm tin cố hữu của chúng ta – rằng không thể có phép màu trên đời, rằng không thể có một kết cục khác – đã thôi miên thế giới này mắc kẹt mãi trong sự sến sáo muôn đời?
Thế giới này như thế là bởi vì ta đã hình dung nó sẵn trong đầu là phải thế, và thế giới được hiện thực hóa qua ý tưởng của chính ta, rằng nó không có chỗ cho những ước vọng hão huyền. Ta yêu quý và bực bội với Anora và Cabiria vì cùng một lẽ: vì một lúc nào đó, họ đã muốn chiến đấu. Ta nể phục họ và cũng mong họ thua cuộc, để thế giới quan của ta khỏi phải đảo lộn, để ta một lần nữa khẳng định niềm tin xác tín của ta: “Đấy, thấy chưa?”
Đến đây, ta cũng có thể nói thêm một người kỹ nữ khác, ở một bối cảnh còn xa xôi hơn: người ca kỹ không tên trong chương 2 của Thời khắc đẹp nhất (最好的時光, 2005) của nhà làm phim huyền thoại châu Á Hầu Hiếu Hiền. Chương 2 trong phim này, Mộng tự do (自由夢), một chương phim câm, cũng về một cô ca kỹ (Thư Kỳ), khao khát một ngày Trương tiên sinh sẽ chuộc mình khỏi cảnh phong trần, nhưng anh không tin vào chế độ đa thê, tàn dư phong kiến. Cảnh cuối cô nhận thư anh, giờ đang ở Tokyo, tham gia đoàn đại diện ký kết hiệp ước cắt nhượng Đài Loan làm thuộc địa của Nhật Bản được ký kết, trong thư anh trích một câu thơ, xin tạm dịch:
Chốn bi thương đã rõ rành,
Để thuyền cập bến thôi đành buộc dây.
Ý là biết chẳng phải chốn tự do, nhưng để thuyền khỏi nổi trôi vẫn cứ phải neo dây buộc. Không biết nói về tình cảnh của ai, của quê hương hay của người ca nương không nơi dung thân ngoài chốn thanh lâu. Chỉ biết người ca nương đọc thư xong, lặng lẽ lau một giọt lệ. Cả phim cô cũng chỉ khóc đúng một lần. Cũng như Ani của Sean Baker. Mặc dù cảm trạng có thể khác, hành trình có thể khác, bối cảnh có thể khác, nhưng trong một khắc giây nào đó, Ani và người ca kỹ không tên kia cũng đã đi cùng qua một tâm cảnh. “Chốn bi thương đã rõ rành”, nhưng có cách nào hơn là neo đậu. Có lẽ người ca kỹ cũng biết thế từ đầu. Có lẽ ta cũng biết thế từ đầu. Hiện thực xảy ra chỉ vì ta đã biết thế từ đầu. Khát vọng thay đổi không đi đến đâu vì bên trong khát vọng đã bị ám sẵn bởi những bóng ma của sự khuất phục.
Và vì đâu thế giới này mãi như nó là thế? Là vì chính ta không muốn thay đổi gì hết trật tự thế giới. Chính ta không tin vào tình yêu. Chính ta không tin vào hy vọng. Không phải tự thân thế giới, không phải ai hết, mà chính ta.
Bài đã đăng Tia Sáng số 5/2025