Về việc đọc: Từ đôi mắt đến cột sống
Trong một tiểu luận về các trình độ đọc1, Umberto Eco đã làm một cái việc được coi là “đại kỵ” với các nhà văn lớn: giải mật tác phẩm của mình.
Trước những diễn giải của độc giả rằng tác phẩm mang nghĩa ẩn dụ, các nhà văn lớn khác thường có xu hướng gạt đi: không đời nào lại thế, truyện tôi kể chỉ là thế thôi, mọi ý nghĩa khác thuần túy là tưởng tượng; chỉ có nhà văn hạng hai mới thích ra vẻ ta đây ưa trò gán ghép; riêng mình Umberto Eco nói rằng, rất ít độc giả soi ra ẩn ý của ông. Cụ thể ông bàn về tiểu thuyết Foucault’s Pendulum (Con lắc của Foucault), với nhân vật chính mang tên Casaubon. Một độc giả sơ cấp chỉ biết Casaubon là Casaubon. Dĩ nhiên, Casaubon không thể nào chỉ là Casaubon. Tiết lộ của Eco, ông đặt tên đó theo tên một học giả châu Âu thế kỷ 16-17, người đã viết một chuyên luận để khẳng định bộ tác phẩm Corpus Hermeticum vốn được cho là thuộc về Hermes Trismegistus, một nhân vật có tính thần thoại hợp nhất giữa hai vị thần Hermes của Hy Lạp và Thoth của Ai Cập, rằng chúng có niên đại muộn hơn nhiều. Casaubon giải thần thoại. Và đó là một hình mẫu cho Casaubon của Umberto Eco.
Ngay từ đầu, Eco là nhà văn viết cho người đọc. Chớ cho rằng, mọi nhà văn đều viết cho người đọc. Đúng ra, những nhà văn như thế là số ít. Phần lớn nhà văn có thể viết cho người suy tư, người viết lách, người dạo chơi, người viếng thăm, người lắng nghe, nhưng không dành cho người đọc. Họ không dựng lên mê cung để người đọc đi tìm những quả trứng Phục sinh được cài cắm, hoặc kể cả có dựng lên, cũng không kỳ vọng ai tìm được chúng, nhưng chỉ qua một tiểu luận, ta biết Eco kỳ vọng cao đến vậy.
Ông không tìm được độc giả lý tưởng ấy. Nhưng ngược lại, một độc giả khác, một người có lẽ nên xếp vào hàng cao thủ đọc sách, lại chỉ cho Eco xem, cuốn Middlemarch của George Eliot cũng có một nhân vật tên Casaubon, và Eliot cũng nhắc tới vị học giả kia. Eco đã đọc Middlemarch, nhưng trớ trêu thay, ông chẳng hề nhớ chi tiết ấy. Ông khẳng định không hề nghĩ về phép liên văn bản này khi đặt bút sáng tác tiểu thuyết của mình.
Ta đã biết từ lâu cái mâu thuẫn giữa người viết và người đọc. Hẳn nhiên cũng biết từ lâu cái mâu thuẫn trên không bao giờ có thể được hòa giải. Không tồn tại một sự đọc có thẩm quyền ở mọi nơi, đúng ở mọi chỗ, trở thành đạo luật như thiên tử. Nhưng đồng thời, ta lại vẫn không thể giả vờ rằng không có cái gọi là “gu” đọc sách, hay “trình độ đọc”, như cách nói của Umberto Eco. “Trình độ” ấy, không liên quan tới đúng hay sai, vị độc giả nhiệt thành đã nhầm nhọt về chuyện Eco “thuổng” cái tên Casaubon từ đâu, nhưng chính sự lầm lẫn thể hiện trình độ ưu tú của anh ta, cũng như khi Umberto Eco đấu tranh kịch liệt cho quan điểm Paradiso là cantica hay nhất trong Divina Commedia – hẳn đến Dante cũng chưa chắc bỏ phiếu cho quan điểm đó – nhưng nó cho thấy Eco là một người đọc mà mọi nhà văn ao ước có, những người chiến đấu đến cùng cho thế giới hư cấu mà tự thân tác giả biết rõ hai điều: (1) nguồn gốc của nó là phi thần thánh, vì vậy không cần một cuộc Thập tự chinh cho nó; và (2) chính tác giả cũng không kiểm soát được sự sinh sản tự nhiên giữa các thành tố mình đặt trong tác phẩm, vì vậy mọi tranh luận đều vừa có cơ sở, vừa dẫn tới sự vô bổ.
Vậy thì, cho những người đã sẵn biết sự tôi luyện trình độ đọc là việc làm vô bổ, những nhà văn gợi ý cách gì để rèn giũa phẩm chất vô ích ấy? Trong tập tiểu luận A history of reading của Alberto Manguel, nguyên giám đốc Thư viện Quốc gia Argentina (một địa điểm có phải rất quen thuộc trong bản đồ đọc sách? Đây cũng là nơi Jorge Luis Borges từng giữ vị trí quản lý cao nhất), ông mô tả hai mẫu vật trong bảo tàng khảo cổ ở Baghdad: hai phiến đất sét với những nét vạch vụng về của con người – những ký tự đầu tiên.
Ta đã biết từ lâu cái mâu thuẫn giữa người viết và người đọc. Hẳn nhiên cũng biết từ lâu cái mâu thuẫn trên không bao giờ có thể được hòa giải. Không tồn tại một sự đọc có thẩm quyền ở mọi nơi, đúng ở mọi chỗ, trở thành đạo luật như thiên tử. Nhưng đồng thời, ta lại vẫn không thể giả vờ rằng không có cái gọi là “gu” đọc sách, hay “trình độ đọc”, như cách nói của Umberto Eco.
Chúng ta ngày nay không đọc chúng, ta chỉ ngắm nghía chúng như dấu vết của buổi sơ kỳ của sự đọc; nhưng một thời điểm nào đó rất lâu trong quá khứ, chúng đã từng được đọc. Đọc theo đúng nghĩa của từ đọc, nhìn ngắm, tiếp nhận ý nghĩa, diễn giải, đồng tình hoặc phản biện, thậm chí là liên tưởng. “Đọc bắt đầu từ đôi mắt”, Manguel viết, rồi ông trích dẫn một loạt các lý thuyết về quang học thời tiền khoa học. Bất chấp những hình thức đọc mới (chẳng hạn, bằng tai), tuyên bố này rõ ràng là định lý không cần chứng minh. Vậy một khi đã thừa nhận nó, thì câu hỏi “làm thế nào để rèn gu đọc sách?” sẽ trở thành “làm thế nào để đôi mắt ta thấy được nhiều hơn?”, hoặc ngược lại, “làm thế nào để nhiều chi tiết đi tới mắt ta hơn?” (tôi đặt ra câu hỏi này, bởi vì trong khi Euclid và Galen thì cho rằng mắt đi tìm chữ, Epicurus và Aristotle lại bảo chữ đi tìm mắt – và bài viết này thì không nhằm mục đích nói về cơ chế sinh học của đôi mắt).
Năm qua, có hai nhà văn kiêm người đọc làm tôi nghĩ về đôi mắt. Một nhà văn hạng trung, một nhà văn hạng nhất. Hãy bắt đầu với một nhà văn hạng trung: Anne Fadiman kể rằng bà có một bộ sưu tập những cuốn sách về các cuộc thám hiểm vùng cực, và những cuốn sách bà thích nhất, không phải những cuốn sách về những nhà thám hiểm thành công như Roald Amundsen, mà là những nhà thám hiểm thất bại như William Edward Parry, John Franklin hay Robert Falcon Scott – đều là người Anh. Họ đi vào hoang dã với hành lí là những hộp màu nước để vẽ tranh, là máy nghe nhạc để nghe đĩa của Enrico Caruso, là sách vở, là những chủ đề thảo luận về nghệ thuật Nhật Bản, tương lai hàng không hay ký sinh trùng trong những loài cá. Họ cũng đi vào hoang dã không phải để khuất phục hoang dã, mà để xem mình có thể chịu đựng tới chừng nào, bất kể cái giá là bỏ mạng.
Tôi tin rằng rồi cũng sẽ xuất hiện những nhà văn kiêm người đọc vĩ đại chứng minh được rằng, sự đọc đòi hỏi một dạ dày, hay một lá phổi, một lá gan khỏe mạnh.
Những sự đọc nằm ngoài văn chương như vậy luôn dạy cho ta cách đọc chính văn chương: đọc những thứ không thực sự cần thiết cho một nhà văn (trừ phi người đó sáng tác về vùng cực), để giảm tốc độ đọc vì đó là một lĩnh vực không thật quen thuộc, ta sẽ vấp phải những gồ ghề lởm chởm của một địa hình tri thức mới, nó buộc đôi mắt ta phải hoạt động hết công sức để quan sát những chướng ngại quanh mình và tự hỏi cái ta thấy đây là cái gì; và nhìn thấy những gì bên rìa, nhìn những thứ không thuộc về “con sán dây” cốt truyện mà E.M.Forster (một nhà văn kiêm người đọc với đôi mắt tinh tường như mắt Horus,) coi là sinh vật thấp cấp nhất trong văn chương. Sự đọc cần cái nhìn tản mát và thậm chí là bâng quơ ấy, để né ra những quy luật nhân quả quan trọng nhưng tẻ nhạt, dọn dẹp quang quẻ không gian tiếp nhận những hợp âm giấu kín.
Còn nhà văn hạng nhất là Anne Carson. Trong phần tựa đề trước khi dịch vở Alkestis của Euripides, bà nói vở kịch này rất Hitchcock. Đáng ra phải là, Shadow of a Doubt thì có gì đó rất Euripides. Không. Bà so theo chiều ngược, thay vì chiều xuôi. Để tưởng tượng sự báng bổ này ta hãy thử nghĩ ai đó bình luận: Có gì đó rất Murakami trong các tiểu thuyết của Kafka; hay tệ hơn một chút, có gì đó rất Luca Guadagnino trong tác phẩm của Oscar Wilde. Nhưng lựa chọn nhìn ngược chắc chắn là một ánh mắt cố tình của Carson. Bà có thể nhìn xuôi, tất nhiên rồi, nhưng bà chọn nhìn ngược. Bà đã chọn tiêu điểm khác.Cái nhìn ngược cũng thấy trong phần đề tựa bà viết khi dịch Hekabe, một vở khác của Euripides kể về nỗi khổ đau của hoàng hậu vợ vua Priam sau khi mất đi đứa con gái cuối cùng, và màn trả thù của bà. Lần này, Carson suy tư về màn trả thù của một nhân vật thần thoại Hy Lạp bằng cách tham khảo những website hướng dẫn trả thù trên Google. Đáng tiếc thay, những trang web mà Anne Carson mô tả đều đã sập, chẳng còn tìm lại được chúng nữa. Cái nhìn nhảy cóc giữa các thời kỳ như vậy theo đúng kiểu luyện mắt của E.M.Forster – ông phân tích về tiểu thuyết Anh bằng cách nhét tất cả những tiểu thuyết gia Anh ngồi chung trong một bàn tròn không phân biệt niên đại, ai tiền bối, ai hậu bối. Việc giải thể cái nhìn theo thứ tự, không chỉ trong tuổi tác mà còn trong cả tầm vóc, để thực hiện một ánh nhìn xiên chéo, xuyên qua mọi sự sắp xếp trên dưới và tôn ti, khiến cho cái nhìn của Anne Carson mở bung ra thay vì gập lại.
Tất nhiên, ngay cả khi đã luyện được một đôi mắt tinh tường thì có lẽ Nabokov sẽ bảo vẫn chưa đủ đâu. Trong một bài giảng về văn chương, ông từng nói về việc đọc A Bleak House của Charles Dickens, và ông khuyên các sinh viên của mình là không phải cố làm gì, hãy cứ thả lỏng, hãy để cột sống lên ngôi. “Dẫu cho ta đọc bằng tâm trí, chỗ ngồi của niềm vui nghệ thuật lại nằm giữa hai bả vai. Cái run lên nhè nhẹ phía sau chắc chắn là hình thái cảm xúc cao nhất mà nhân loại đạt tới trong quá trình tiến hóa nghệ thuật thuần khiết và khoa học thuần khiết. Hãy thờ phụng cột sống và cảm giác nao nức nơi nó. Hãy tự hào rằng chúng ta là động vật có xương sống, rằng ta là động vật có xương sống, nơi chót cùng của nó là một ngọn lửa thiêng. Bộ não chỉ là sự tiếp nối của cột sống: như bấc nến kéo dài dọc toàn bộ thân nến. Nếu ta không có đủ khả năng tận hưởng cái run rẩy ấy thì không thể nào tận hưởng văn chương được đâu, thế thì hãy bỏ sạch đi mà tập trung vào truyện tranh, trò chơi điện tử hay những cuốn-sách-của-tuần”. Bohumil Hrabal cũng không chịu đọc bằng mắt. Nhân vật hay nhất của ông – một người làm nghề nghiền sách vở giấy vụn đồng nát trong thời kỳ kiểm duyệt ở Prague, và vị trí khiêm tốn nhưng vừa vặn đó khiến ông ta giống như vị sãi quét chùa Thiếu Lâm trong Thiên Long Bát Bộ, một cao thủ vô danh nhưng đã đạt tới nội lực thượng thừa – nhân vật này đọc bằng cách nuốt: “Bởi vì khi tôi đọc, tôi không thực sự đọc. Tôi đút một câu văn đẹp vào miệng và mút nó như mút một giọt trái cây, hoặc tôi nhấp một hớp như hớp rượu mùi cho đến khi chiêm nghiệm ấy tan hòa trong tôi như rượu…”.
Với những lý lẽ chẳng thể chứng minh đúng nhưng cũng không thể chứng minh sai như của Hrabal và Nabokov thì tôi tin rằng rồi cũng sẽ xuất hiện những nhà văn kiêm người đọc vĩ đại chứng minh được rằng, sự đọc đòi hỏi một dạ dày, hay một lá phổi, một lá gan khỏe mạnh (những nhà văn kiêm người đọc tài năng là những người có khả năng chứng minh bất cứ cái gì ngay khi vừa chứng minh phản đề của nó). Bất chấp tất cả những miêu tả bằng hình ảnh hay bằng trí tưởng tượng rằng người đọc là một sinh vật ẻo lả và yếu đuối – hãy xem những tấm ảnh hay tranh vẽ người đọc sách, từ những bức tranh khắc gỗ của Katsukawa Shunshō đến tranh của một họa sư Ottoman như Osman Hamdi Bey, nếu không quá mơ mộng thì cũng quá lơ là phòng thủ, họ thường ở trong tư thế mất cảnh giác với những nguy hiểm rình rập, họ là đối tượng dễ tổn thương nhất – nhưng có lẽ sự thực nằm ở phía ngược lại: phần lớn người đọc đều có một năng lượng thể chất vô biên. Họ có thể bị vẹo cột sống vì ngồi sai tư thế quá nhiều, nhưng cột sống – cũng như sách – có nhiều cuộc đời, nhiều cách đọc, và ở một cách đọc khác, cột sống của người đọc là vô song. Cũng như vậy với đôi mắt, Borges đọc tới lòa đôi mắt. Nhưng ai dám nói đó là đôi mắt không còn đọc được gì? Hay ai dám nói mắt mình tinh tường hơn mắt Borges?
Những điểm dễ bị tấn công nhất ở một người đọc cũng chính là hệ thống miễn dịch của họ. Một lần nữa, ta hãy quay về Umberto Eco nhé. Francesco De Sanctis cho rằng Paradiso rất tồi, Umberto Eco lại cho rằng nó là phần hay nhất. Ở một phương diện, cả hai dù đối đầu nhau nhưng lại làm chuyện vô ích như nhau. “Tranh luận để làm gì? Dù sao văn chương cũng chỉ là chuyện bịa” luôn là mũi tên bắn đúng hồng tâm, xuyên thấu những người liên đới tới văn chương, dù là người viết hay người đọc. Họ tê liệt ngay lập tức, không thể đáp trả, vì sự thật đúng là như thế. Nhưng theo cách khác, chính vì chẳng để làm gì, chính vì bản thân sự đọc đã luôn là một sự vô ích, bên trong nó tích tụ sự trống không, nên mũi tên có bay đến, thì cũng chẳng thể đâm vào đâu được cả, chẳng thể làm hại ai được cả. Và người đọc, người đọc không mình đồng da sắt, nhưng đố ai có thể làm cho họ gục ngã.□
——–
1 Intertextual Irony and Levels of Reading
Bài đăng Tia Sáng số 1+2/2025