Walter Benjamin: Từ sưu tầm đến viết
Thú sưu tầm sách, đồ chơi và các vật vô giá trị đã góp phần nhào nặn lối viết của Walter Benjamin (1892-1940) – một trong những nhà tư tưởng quan trọng của lý thuyết phê phán.

Năm 1923, khi chủ nghĩa tư bản vừa trải qua cuộc đột biến dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa phát-xít, một nhóm học giả Marxist người Đức đã thành lập Viện Nghiên cứu Xã hội Frankfurt, để tìm hiểu và phê phán những điều kiện xã hội khiến con người mất tự do mà vẫn tưởng mình tự do. Áp dụng duy vật luận lịch sử của Marx, họ xem các hiện tượng xã hội không phải như những hiện tượng tự nhiên, mà như kết quả của sự thay đổi các điều kiện kinh tế trong lịch sử. Tập hợp nhiều trí thức như Max Horkheimer, Theodor Adorno, Herbert Marcuse, Erich Fromm, và sau này là Jürgen Habermas, Viện Nghiên cứu Xã hội đã xây dựng lý thuyết phê phán (critical theory), để lại ảnh hưởng rộng khắp lên xã hội học, triết học và lý luận nghệ thuật về sau. Khái niệm “công nghiệp văn hóa” – để chỉ sự tái sản xuất văn hóa ở quy mô công nghiệp, hướng đến đại chúng tiêu thụ, rất phổ biến ở Việt Nam hiện nay, vốn là một đóng góp của Theodor Adorno cho các công trình của lý thuyết phê phán.
Nhưng Walter Benjamin, một gương mặt vòng ngoài của lý thuyết phê phán, mới là người khởi xướng việc phê phán văn hóa đại chúng và mỹ học hiện đại từ thập niên 1920. Adorno, người biên tập và bảo hộ trí tuệ cho các bản thảo mà Benjamin để lại sau khi qua đời, đã kế thừa Benjamin trên con đường đó. Walter Benjamin không chỉ là một nhà nghiên cứu, mà còn là một nhà sưu tầm. Hoạt động sưu tầm của ông đã chi phối cách ông viết và nhìn thế giới.
Viết bằng các mảnh vụn
Dễ hiểu vì sao ở buổi chuyển giao thế kỷ, cậu bé Walter thích sưu tầm đồ chơi, sách thiếu nhi và album dán tranh: cha cậu, một doanh nhân Do Thái ở Berlin, đã làm giàu nhờ buôn đồ cổ và tác phẩm nghệ thuật. Cũng dễ hiểu vì sao cậu sẽ đi sâu sưu tầm sách, thay vì buôn tranh và tượng: những lộ trình mà xã hội soạn sẵn cho một bé trai có thể trạng ốm yếu đã lái cậu khỏi nghiệp kinh doanh, để chuyển sang tìm hiểu triết học, mỹ học và văn học – cả khi tham gia phong trào Thanh niên Đức lẫn khi học đại học ở lứa tuổi 20. Có thể đoán vì sao bộ sưu tập của Walter sẽ chào đón những đồ vật có giá trị kinh tế rất thấp – như đồ chơi dân gian, tem thư, bưu ảnh, tạp chí và tờ rơi quảng cáo: cuộc lạm phát năm 1923 đã làm cha cậu tiêu tán gia sản, và mất khả năng chu cấp cho người con đang bắt đầu một sự nghiệp học thuật bấp bênh. Cái nghèo ập đến đột ngột cũng góp phần giải thích vì sao Walter – người từng dành trọn mọi mối quan tâm học thuật cho thần học Do Thái và mỹ học lãng mạn Đức – chuyển sang đọc Marx và muốn cống hiến cho cuộc đấu tranh giai cấp.
Năm 1929, Walter Benjamin bắt đầu tham gia sâu hơn vào vòng tròn trí thức Marxist ở Đức, thông qua người bạn mới kết thân là nhà viết kịch Bertolt Brecht. Sự nổi lên của chủ nghĩa phát-xít Đức – vốn ghét cả Do Thái lẫn Marxist – đã buộc ông phải sang Pháp lánh nạn từ năm 1933. Để có tiền sống lay lắt, ông tìm nguồn trợ cấp nghiên cứu từ Viện Nghiên cứu Xã hội của Max Horkheimer và Theodor W. Adorno dù chưa bao giờ là thành viên chính thức của viện. Chính cuộc hợp tác này đã giúp ông nổi danh, khi góp phần nhào nặn lý thuyết phê phán mà Viện Nghiên cứu Xã hội khởi xướng.
Là một nhà sưu tầm, ông đã hăng hái nhặt nhạnh vô số mảnh vụn vật chất quanh mình, đặc biệt là những mảnh vụn kết tinh mạng lưới quan hệ đặc trưng cho thời đại ông – gồm cả quan hệ giữa các bộ phận của guồng máy sản xuất lẫn quan hệ giữa các khái niệm trong đời sống tinh thần đang trao nghĩa cho vật chất.
Có lẽ lối viết của Benjamin đã lôi cuốn Adorno qua khía cạnh duy vật. Là một nhà sưu tầm, ông đã hăng hái nhặt nhạnh vô số mảnh vụn vật chất quanh mình, đặc biệt là những mảnh vụn kết tinh mạng lưới quan hệ đặc trưng cho thời đại ông – gồm cả quan hệ giữa các bộ phận của guồng máy sản xuất lẫn quan hệ giữa các khái niệm trong đời sống tinh thần đang trao nghĩa cho vật chất. Bằng cách lần theo những quan hệ đó như một thám tử để thu thập hết mảnh vụn này đến mảnh vụn khác, ông có thể dựng lại chân tướng của một thời đại, nhằm nhìn rõ bi kịch của nó và tìm những cánh cổng giúp con người thoát ra. Đó là tình trạng vật hóa con người của các dây chuyền sản xuất công nghiệp. Nếu trước đây, những người thợ thủ công hay công nhân đều cảm thấy kết nối với thiên nhiên và xung quanh thông qua việc tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh của riêng mình, thì giờ đây dưới sự “tiến bộ của kỹ thuật”, mỗi người công nhân chỉ lặp đi lặp lại một thao tác, không khác gì một mắt xích trong một công xưởng khổng lồ, tách biệt với thế giới bên ngoài. Nếu một nông dân hay thợ thủ công trước đây có thể sinh tồn trong thiên nhiên khi bị mất nghề, thì một công nhân hiện đại không có giá trị tự thân nào khi thiếu máy móc. Giá trị lao động càng trở nên rẻ mạt và con người ngày càng lệ thuộc vào máy móc. Những người nghệ sĩ trong ngành “công nghiệp văn hóa” cũng không nằm ngoài quy luật này. Họ xóa bản thân để làm ra những sản phẩm chạy theo thị hiếu. Lối thoát cho văn hóa hiện đại, theo Walter Benjamin, là đưa nhận thức giai cấp và tinh thần phê phán vào các thực hành nghệ thuật. Điều này được ông nói trong tiểu luận “Tác phẩm nghệ thuật trong kỷ nguyên tái sản xuất cơ giới” (1935), phương pháp của nó chỉ hiển lộ qua hàng ngàn trang nháp của “Dự án Mái vòm” (Arcades Project), mà ông chưa kịp hoàn thành trước khi tự sát để phản đối lệnh bắt của phát-xít Đức.3

Tuy nhiên, phương pháp của Benjamin không bó hẹp trong duy vật luận. Ông đã kết hợp duy vật luận Marxist với các phép ẩn dụ về nội tâm trong thần học Do Thái – ảnh hưởng mà ông nhận được từ nhà thần học Gershom Scholem. Các triết gia khác của lý thuyết phê phán, như Adorno và Horkheimer, sẽ kết hợp chủ nghĩa Marx với tâm lý học của Sigmund Freud. Chính nhờ bộ công cụ chiết trung này, họ đã bóc tách các lớp vỏ vật chất của thế kỷ XIX và XX, cho đến khi tinh thần của thời hiện đại lộ ra bên dưới.
Tinh thần của thú sưu tầm
Như vậy, vì những ngoại cảnh mà Walter Benjamin không thể kiểm soát, ông đã bị thú vui sưu tầm ám ảnh; đã hướng sự chú ý đến sách, tranh, ảnh và đồ chơi; đã nhặt nhạnh cả những đồ vật không có tí giá trị kinh tế nào; và đã cố kết hợp thú vui này với các công việc chữ nghĩa giúp ông vừa đấu tranh, vừa kiếm sống. Nhìn lại, dường như ông chỉ chủ động trên hai phương diện: rút ra vài mẹo mua hàng từ kinh nghiệm cá nhân, và xác lập các nguyên tắc tinh thần của thú sưu tầm – thứ ngăn ông biến thành một kẻ tiêu thụ mê muội và thô tục. Vì giới hạn độ dài, bài viết này xin bỏ qua các mẹo mua bán, để tập trung vào các nguyên tắc tinh thần mà Benjamin trình bày rải rác trong đề cương của “Dự án Vòm” và một tiểu luận năm 1931, mang tên “Mở hòm chứa thư viện của tôi”.1,2
Trước hết, vì sao chúng ta sưu tầm? Nếu chọn một điểm nhìn bao quát và phi cá nhân, Benjamin sẽ xem sưu tầm như một sự thừa kế, sử dụng và tái đầu tư vốn văn hóa. “Thừa kế là cách vững chắc nhất để hình thành một bộ sưu tập, bởi nhà sưu tập nhìn tài sản của mình qua cảm thức trách nhiệm của một người chủ đối với của cải” – ông đã viết vậy, khi kể rằng nền móng trong bộ sưu tập của mình là hai cuốn album dán tranh mà ông được mẹ nhượng lại từ thời trẻ con. “Đặc điểm cao quý nhất của một bộ sưu tập sẽ luôn là tính chất có thể truyền thừa của nó” – cậu Walter viết tiếp, như thể đang phát ngôn cho xuất thân tư sản Do Thái.
Benjamin chỉ mua những món đồ có thể khơi gợi trong ông một ý nghĩa tinh thần. Đó không phải là đồ vật đắt giá hay hữu ích, mà là một đồ vật ông có thể yêu thương.
Như vậy, việc sưu tầm có ý nghĩa nhất nếu được truyền lại qua các thế hệ, nhằm góp phần tạo nên tri thức và ký ức tập thể. Nhưng để ký ức tập thế ấy sống tiếp – thay vì sụp đổ thành những mảnh vụn vô nghĩa dưới sức nặng ngày càng tăng của chính mình, hoặc đông cứng như một tượng đài vô tri vô giác – nó phải được phép thay đổi thông qua quá trình học hỏi, phản tư, tự tái cấu trúc bản thân. Ký ức tập thể làm điều đó thông qua ký ức cá nhân của từng thế hệ người kế thừa. Mỗi thế hệ thủ thư không chỉ mở rộng thư viện bằng cách nhập sách mới, mà còn xây dựng danh mục phân loại mới để lập lại trật tự cho khối vật chất đang tăng lên – một hành động cách mạng, làm thư viện thay đổi toàn bộ cấu trúc.
Với tư cách một nhà sưu tầm, Benjamin đã đảm nhận vai trò đó bằng cách nào? Trước tiên, ông hiểu rõ mình đang sống trong thời đại mà con người bị vật hóa: dây chuyền sản xuất công nghiệp biến họ thành những bộ phận vô tri trong guồng máy lớn, nơi họ không thể thiết lập một mối quan hệ nhân văn và ý nghĩa nào với những sản phẩm giống hệt nhau mà mình làm ra hoặc mua. Trong hoàn cảnh đó, nhiệm vụ của nhà sưu tầm là “chiếm hữu sự vật” – không phải để đầu cơ sinh lời nhờ chúng, mà để biến chúng thành một đồ vật thân thiết với của mình. Chỉ khi “tước bỏ tính hàng hóa khỏi sự vật” thông qua quan hệ thân thiết này, nhà sưu tầm mới “giải thoát sự vật khỏi kiếp nô lệ phải hữu dụng”, từ đó ban cho nó một ý nghĩa, tức một vị trí trong ký ức tập thể mà bộ sưu tập đang lưu giữ.
Đây là một chiến lược mạo hiểm. Trong nỗ lực “chiếm hữu sự vật”, nhà sưu tầm có thể rơi vào chủ nghĩa tiêu thụ, và dần bị vật hóa bởi một khối đồ sộ những món hàng mình mua. Để thoát khỏi nguy cơ đó, Benjamin chỉ mua những món đồ có thể khơi gợi trong ông một ý nghĩa tinh thần. Đó không phải là đồ vật đắt giá hay hữu ích, mà là một đồ vật ông có thể yêu thương: đồ vật có một số phận khiến ông tin rằng nó thuộc về ông, vì có một chỗ khuyết trong bộ sưu tập đang đợi nó ngự xuống. Nói cách khác, số phận của đồ vật trùng với phần ký ức tập thể đang đợi viết tiếp. Số phận ấy hiển lộ qua niên đại, xuất xứ, kỹ thuật chế tác, vị trí của nó trong lịch sử xã hội và lịch sử bộ môn… Nó cũng biểu lộ qua dấu vết lưu lại của những đời chủ trước, và của thời gian. Nhưng cảm giác mà nó khơi dậy khi tiếp xúc với nhà sưu tầm, người giữ ký ức của bộ sưu tập, mới là quan trọng nhất.
Như đã đề cập, thủ thư không chỉ lưu giữ quá khứ, mà còn sắp xếp lại quá khứ để tạo ra những thay đổi cách mạng. Khi chiếm hữu các món đồ cũ bằng một mối quan hệ thân mật, nhà sưu tầm chủ động viết tiếp số phận mà mình chia sẻ với chúng, qua đó tự giải phóng bản thân, đồng thời giải phóng phần lịch sử bị che giấu mà bộ sưu tập giúp mình nhìn ra. Benjamin thừa nhận: “Làm mới lại thế giới cũ – đây là khát vọng sâu thẳm đã thôi thúc người sưu tầm liên tục chiếm hữu những món đồ mới, và ưu tiên sách cũ hơn những ấn bản làm sang”.
Chính khía cạnh sáng tạo này đã biến thú sưu tầm thành một nghệ thuật. □
Chú thích:
[1] http://tems.umn.edu/pdf/Benjamin-3-11-Unpacking%20My%20Library.pdf
[2] “Dự án Vòm” (The Arcades Project / Das Passagen-Werk) là công trình lớn nhất và dang dở của Walter Benjamin, được ông thực hiện trong 13 năm cuối đời. Trong trạng thái chưa hoàn tất, nó là một tập hợp khổng lồ gồm 1000 trang ghi chép, trích dẫn và bình chú xoay quanh đời sống đô thị, các hàng hóa và các kinh nghiệm hiện đại ở Paris thế kỷ XIX. Chịu ảnh hưởng từ cuốn “Người nông dân Paris” của nhà thơ siêu thực Louis Aragon, và để lại ảnh hưởng lên lý thuyết phê phán, “Dự án Vòm” hiện diện như một cầu nối giữa nghệ thuật và nghiên cứu xã hội trong các phong trào cánh tả đầu thế kỷ 20.
[3] Sau này, lối viết dựa trên mẩu vụn của Benjamin sẽ ảnh hưởng đến Roland Barthes và Susan Sontag.
Bài đăng Tia Sáng số 22/2025
