Việt Nam chưa thể có tiểu thuyết gia lớn, tại sao?

1. Đời người trăm năm như nhau, nhà văn Tây hay ta gì gì ông Trời cũng chẳng ưu ái thêm ngày nào, vậy mà bên trời ấy thế hệ này đến thế hệ khác nảy nòi bao nhiêu tiểu thuyết gia lớn. Còn ta thì không. Tại sao? Thử nhìn qua vài yếu tố:


Don Quixote de la Mancha được coi là tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của châu Âu. Ảnh: Tượng Don Quixote và người giám mã. 

Don Quixote de la Mancha được coi là tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của châu Âu, mở đầu cho loạt tác gia tiểu thuyết ra đời, mà đỉnh cao hẳn là thế kỉ XIX với những yên tuổi như Lev Tolstoi, Dostoievski, Balzac, Hugo, Stendhal, vân vân. Nghĩa là châu Âu đã có truyền thống tiểu thuyết hiện đại đến bốn thế kỉ, trong khi ở Việt Nam, gia sản truyền thống ấy chưa tới trăm năm. 

Thế giới hiện đại thở hơi thở của văn minh Tây phương, các bình diện nghệ thuật luôn được nhìn/ đánh giá qua con mắt thẩm mĩ Tây phương. Chân trời phương Đông Trung Quốc không phải không có truyền thống “tiểu thuyết” lớn, nhưng độc giả của ngày hôm nay khoái đọc Chiến Tranh và Hòa bình hơn là Tam Quốc chí. Ở thế giới ấy, bao nhiêu kĩ thuật mới xuất hiện cuốn hút nhà văn thử nghiệm. Từ hiện thực đến lãng mạn, từ hiện thực huyền ảo đến dòng ý thức, siêu thực hay tiểu thuyết mới cũng không chừa. Chúng ngập tràn thế giới văn học hiện đại, tạo ra vô số cuộn sóng lôi cuốn cả khối nhà văn Đông phương vào cuộc.

Đó là chưa kể đến bề dày truyền thống xung quanh sáng tác văn chương: Môi trường giáo dục, cộng đồng độc giả, nhà phê bình, cơ chế, vân vân, Tây phương cũng ăn đứt ta nốt.

2. Thế giới đã làm được gì?

Goethe cho rằng, có ba yếu tố tạo nên kiệt tác:

– Dân tộc đó có điều lớn lao để nói với nhân loại;

– Có thiên tài để nói điều đó lên bằng một cấu trúc nghệ thuật;

-Và người đó làm việc ở thời kì sung sức nhất.

Gợi ý của Goethe chỉ mang tính “điều kiện”, còn tiêu đích điều kiện ấy đó nhắm tới là một tác phẩm nghệ thuật lớn cần đạt. Thứ nhất, nhà văn có điều lớn lao để nói với thế giới không. Như Kẻ xa lạ L’Étranger của Camus, một tiểu thuyết rất mỏng, đã nêu bật tâm thế chủ đạo của con người đương thời. Hoặc dự cảm về tinh thần con người ở thời đại đang tới như Kafka đã làm được. Là điều khó tìm thấy đáp án ở nhà văn Việt Nam thời gian qua. Thứ hai là vấn đề kĩ thuật. Hỏi có nhà văn Việt Nam nào tạo lập cho mình một “cấu trúc nghệ thuật” siêu đẳng như Faulkner đã sử dụng nhuần nhuyễn trong các tiểu thuyết của mình? Câu trả lời chắc chắn là: chưa!

Làm thơ in tập để bạn đọc đón nhận, thì dễ; giật được giải thưởng nào đó, không khó; thậm chí cho người đời thuộc và nhớ, hay để được tuyển vào sách giáo khoa cũng thế. Khó vạn lần, là văn thơ làm thay đổi dòng chảy văn chương thế giới [như Rimbaud với thơ tự do] dù phải chịu bị người đương thời ruồng rẫy [như Whitman]. Khi đó, văn chương không còn là kĩ thuật, hay chỉ thuần thuộc trào lưu văn học (ngay mục này thôi nhiều nhà văn Việt Nam vẫn chưa vững), mà ở tầm khác: tầm tư tưởng. Và không chỉ có thế…

3. Nhà văn Việt Nam làm gì?

Dân tộc Việt Nam thế kỉ XX, có điều gì lớn lao để nói với nhân loại? 

– Có! Lớn một cách đặc biệt nữa là khác. Bởi chưa có dân tộc nào trải nghiệm chiến tranh như dân Việt đã trải qua; cuộc chiến đến nay vẫn còn chưa chuẩn tên gọi, chiến tranh không chỉ giới hạn trong phạm vi đất nước hình chữ S, mà mang tầm vóc địa cầu. 

Có nhà văn Việt Nam nào “nêu bật tâm thế chủ đạo” ở đó, bên cạnh “dự cảm về tinh thần con người ở thời đại đang tới” chưa? Chưa! Cả tiểu thuyết được cho là thành công nhất: Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh vẫn chưa vươn tới tầm đó, cao vời hơn và thẳm sâu hơn. Đó là chưa nói, nhà văn tài hoa và đẫm tinh thần nhân văn này vẫn chưa vận dụng kĩ thuật hàng đầu, đừng nói chuyện phát kiến kĩ thuật mới với “cấu trúc nghệ thuật” siêu đẳng ảnh hưởng ra thế giới.

Tại sao? Nhìn qua yếu tố thứ hai. Việt Nam có thiên tài không? 

– Có. 

Thiên tài này có làm việc ở thời kì sung sức nhất không? 

– Có. Tạm cho là vậy. Thời Đổi mới, hàng loạt tên tuổi tài năng cùng những tác phẩm sáng giá xuất hiện là minh chứng. Thế rồi những tên tuổi ấy biến đi đâu? Tại sao nhà văn Việt Nam mãi rơi vào định mệnh một tập, hay nếu có viết tới cũng chỉ như thể một kéo dài chữ nghĩa không gì hơn kể lể dài dòng vô tích sự?


Nhà văn Tây phương được trang bị tri thức triết học và tư tưởng truyền thống của họ rất nền tảng, bên cạnh họ còn ý hướng [và đang] học thêm tư tưởng Đông phương. Nền tảng văn hóa phương Đông sẵn có với các nhà văn Việt, có thể được “tận dụng” như thế nào? Trong ảnh: Tranh bà Chúa Thượng Ngàn của dòng tranh dân gian Hàng Trống. Gần đây, Nguyễn Xuân Khánh đã viết tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn về chủ đề này được coi là rất thành công.  

Việt Nam không phải không có tài năng, mà chúng ta chưa chuyên nghiệp hóa sáng tạo. Trong khi nhà văn Tây phương được trang bị tri thức triết học và tư tưởng truyền thống của họ rất nền tảng, bên cạnh họ còn ý hướng [và đang] học thêm tư tưởng Đông phương. Nhà văn Việt Nam ngược lại, ta sở hữu truyền thống đó, nhưng lại đang rời xa nó, còn học Tây phương chúng ta mãi mãi là học trò! Thì hỏi làm sao có thể bằng, hay vượt qua Tây phương?

Làm gì? Cần nỗ lực tối đa. Như Khổng Tử dạy: Người cố gắng một, mình cần cố gắng hai; cố gắng hai không được, thì phải cố gắng gấp ba, gấp bốn… Học Tây phương ngay từ tiểu học, như người Nhật đã. Lặn sâu vào truyền thống Đông phương: Đông phương Ấn Độ, Đông phương Trung Hoa, Đông phương Hồi giáo. Và sáng tạo. 

Với văn chương, cần làm như Italo Calvino khiêu khích: “Những dự án mang tham vọng quá trớn có thể bị chối từ trong nhiều lĩnh vực nhưng không thể bị chối từ trong lĩnh vực văn chương. Văn chương chỉ còn sức sống nếu chúng ta tự đặt ra cho chính mình những mục tiêu bất khả lượng đạt, vượt quá tất cả những hi vọng về sự thành tựu. Chỉ chừng nào các nhà thơ và nhà văn tự đề ra cho chính mình những công tác không có bất cứ ai dám tưởng tượng đến, thì văn chương mới đạt được tác dụng của nó…”

“Những tham vọng quá trớn, những mục tiêu bất khả lượng đạt”, chỉ thế thôi, chúng ta mới có cơ may và hi vọng. □

Tác giả