Echo – Vọng Vu lan*

Lời ghi trước: Ý nghĩa của Vu lan rộng lớn bao trùm cả vũ trụ nhân sinh. Vu lan là cơ hội giải phóng của con người trên thế gian có thể vượt giới hạn của mình trên bước đường chuyển hóa để giải phóng cho mình và cho người. Bằng hạnh lực của chính mình - mà đó là lòng hiếu thảo - hạnh nhân bản nhất - con người có được năng lực “xá tội vong nhân”, -“xá tội” chứ không “rửa tội”- vong nhân vô lượng vì mê lầm phải ở chốn ngục tì vô minh trở lại thành người nơi thế gian ... Cái chết không còn là một đe dọa sợ hãi và những vong linh có thể hóa kiếp trở lại trên thế gian. Cho nên Vu lan là ngày hội của chúng sinh đồng đẳng! Cho nên lòng người náo nức niềm vui hóa kiếp sinh linh, náo nức như chính mình cũng đang hóa kiếp, khi nghĩ rằng những người khuất mặt đang chờ ngày cửa ngục được mở rộng để trở lại nhân gian, nhân gian như nơi chốn làm người đang là vị Phật sẽ thành! (Trích: "Vu lan Huế, thấp thoáng trở về" [1]).

Tranh Mẹ con – Mai Trung Thứ.

Một người thợ nề trẻ, dáng dấp bất ngờ khác với những người thợ nề thường gặp, hầu như thư sinh với vẻ người gầy cao, gần như ẻo lả, hai bàn tay dài lêu nghêu, gương mặt thanh tú khác thường, sốt sắng nhận lời lên tu sửa ngôi từ đường cũ nát của chúng tôi ở gần  chùa Linh Mụ. Hỏi em người ở đâu, người thợ trẻ trả lời với đôi mắt sáng to: “Nhà ở tận bên Châu Ê”. Hỏi em bảo đảm sửa được ngôi nhà cũ rích mà không bỏ cuộc? – “Dạ được!”. Hắn nhìn ngắm ngôi nhà và gật đầu mạnh mẽ, vẻ nhiệt tình, lại còn sốt sắng tự nguyện khăn gói lên ngủ qua đêm để trông nom nhà và sáng hôm sau cùng nhóm thợ bắt đầu sớm.

Nghe mọi người quen hắn đều bảo là một trong những người thợ trẻ chăm và giỏi tính nhất vùng, làm việc đâu ra đó, yêu nghề và không ngại khó. Nhà chúng tôi neo người, chẳng là phần đông đã tha hương, nhiều người ở khắp nơi trên thế giới, ai cũng ngại về, và có về cũng chỉ để ghé thăm, cảm tưởng hầu như giống nhau về ngôi nhà xưa ấy, ái ngại trong lòng, khi nhìn ngôi nhà tổ tiên quằn quại chịu đựng với thời gian, nhưng càng ngại hơn là gian phòng ẩm thấp ai đến rồi cũng đi, ít người chịu ngủ trong căn nhà cũ, đầy hơi mốc và tối tăm. Cho nên mừng nghe có người sẵn sàng lên ngủ trông nhà, mặc dù vẫn còn hồ nghi quá nửa. Nhưng không lâu, người thợ trẻ với vẻ mặt tươi cười đã cắp đùm khăn áo, hộp cơm tối, gọn gàng bước qua ngưỡng gỗ, nói yên tâm mọi người có mặt đang sắp sửa về phố và lịch kịch đóng mấy tấm cửa bàng khoa. Anh tôi bảo hắn bạo gan – thú thật nhìn vào căn nhà tối ai cũng sờ sợ làm sao mà hắn tỉnh bơ – lại nhiệt tình và có cái tâm vô ngại. Sau khi dặn dò vài thứ ai nấy an lòng ra về.

Người thợ trẻ đốt đèn, chọn khoảng nền nhà trước bàn thờ Phật làm nơi ngủ, trải chiếu, tắt đèn, hắn nhìn lên mái ngói có tấm gương hắt chút bóng đêm ngoài vườn vào nhà, gian phòng lờ mờ tối chìm trong im lặng, và chẳng bao lâu người thợ trẻ dễ ngủ đã thở đều. Hắn ngủ ngon lành giấc ngủ của một chàng trai tuổi hai mươi sau một ngày lao động quần quật khiêng vác.

Vào khoảng giữa đêm trong cơn mê, hắn bỗng nghe có tiếng đàn ca xướng hát, tiếng người nói chuyện lao xao, mỗi lúc một rộn ràng hơn, mùi hương trầm lẫn với hương hoa mộc, hoa sói trong vườn thoảng nhẹ khắp nhà, nghe có tiếng chào nhau mừng rỡ như tuồng đang có một cuộc gặp mặt gia đình mừng tuổi, nhiều tiếng cười chung quanh, tiếng lanh canh của chén bát sứ chạm nhau trong nhà. Đang còn bỡ ngỡ, chưa biết đâu vào đâu, tưởng mình nằm mơ, bỗng hắn thấy trước mắt mình một bà lão đầu tóc bạc phơ, dáng người gầy guộc mà thanh tao quý phái, tươi cười đưa tay kéo hắn dậy và nắm tay hắn dẫn đi khắp nhà, đến từng người một giới thiệu. Vẻ nhu hòa êm ái của bà làm hắn mất hết e dè, trái lại còn vui lây, cảm giác đầy thân thuộc, nên bước theo bà mà không chút ngại ngùng. Bà vừa đi vừa kể chuyện, chuyện con cháu trong nhà, ai đi ai ở, rồi đến chuyện căn nhà, hình như đã có từ  mấy trăm năm nay, hết đời này sang đời khác, cho đến khi bà về làm dâu trong căn nhà ấy. Câu chuyện của bà hình như dài lắm mà hắn không nhớ hết, chỉ biết bà kể miên man bất tuyệt – mà trong khi cùng bà đi quanh thì tiếng ca hát văng vẳng bên tai càng nhộn nhịp, có tiếng đàn đệm theo tiếng hát, nghe rất ngọt ngào và điêu luyện như của những người tài tử sành điệu… Điều lạ lùng khác hẳn với ban ngày là căn nhà bỗng đầy sinh khí tươi mát, ánh sáng lấp lánh như nắng ban mai, không gian ấm cúng, chan hoà… Cuộc vui hình như kéo dài, đến bao lâu hắn không còn nhớ, chỉ biết là vui thật vui, hớn hở trong lòng không tả hết. Cho đến khi hồi chuông sớm từ chùa Linh Mụ vọng tiếng đầu tiên, người thợ nề trẻ giật mình, mới biết mình thật vừa mơ…

Câu chuyện người thợ nề trẻ nằm mơ trong căn nhà cổ tính ra đã hơn hai mươi năm, trước khi mẹ tôi rồi anh tôi lâm bạo bệnh và trở về với tổ tiên. Lần ấy vừa trở lại Huế, còn sinh thời anh tôi, chưa kịp đến nhà, từ phi trường, trên xe anh tôi đã kể và nhất định giới thiệu người thợ nề trẻ tuổi, nét mặt anh cẩn mật với một giọng kỳ bí lạ lùng. Một lần gặp, và sau đó mất hút tin. Tôi vẫn còn nhớ nét mặt thư sinh và đôi mắt sâu đen thông minh mỗi khi nhìn lên như nói với người đối diện nhiều điều hơn lời nói. Cảm giác thân thuộc như người trong nhà, và có lẽ hơn thế nữa, người ấy xuất hiện trước tôi như một người đưa tin, giây nối giữa mơ và thực, giữa quá khứ và hiện tại, giữa bên này và bên kia, giữa minh dương hai ngã.

Trong tâm lẩn quẩn hai chữ tri ân mà không được nên lời, lại muốn giữ kín như một bí nhiệm cho riêng mình câu chuyện ấy, và kỳ lạ còn hơn cả bí nhiệm đeo đẳng trong hồn, mỗi khi chợt nhớ đến câu chuyện lại thấy lóe sáng tin vui có sức khởi động cả niềm tin – rằng trên nền đất cũ tịch liêu ấy vẫn sống động một thế giới toàn diện của hữu hình và vô hình, của lời và không lời, của tiếng và không tiếng – âm thanh và cõi lặng, tất cả được bao bọc bằng khi trời trong suốt hay mờ đục, và tầng tầng ánh sáng ngày đêm, mặt trời, trăng, sao,… rằng trong thế giới toàn diện ấy cơ hội gặp nhau, nghe nhau vẫn còn đó, vẫn nằm trong ngũ sắc cầu vồng, trong chớp mắt máy động tâm can.

Không những đêm mà cả giữa ngày, sự gặp gỡ hầu như xảy ra từng khoảnh khắc, kết thành một dòng liên tục, dòng chảy của chủ ý và vô tâm, của dòng ý thức – vô thức – bất tuyệt, những cuộc gặp gỡ vô hình và hữu hình, những chào hỏi vô thanh vang vọng nơi từng lá cây ngọn cỏ, trong gió đùa buổi sáng hay nắng hanh chiều bên song. 

Ta có biết và ta có thể không hay biết, những bay đi và trở lại thế gian, những xa lìa và đoàn viên, những trở về, gặp gỡ rồi lìa xa, tiếng cười và tiếng khóc. Những tưởng bóng tối là u sầu, ấy thế mà vang vọng tiếng cười thanh xuân; những tưởng quá khứ là lụi tàn, nhưng không, tương lai vẫn xanh màu lá non. Và như thế mỗi cuộc trở về bỗng mang ý nghĩa hồi sinh, cuộc ra đi mang theo hy vọng gặp lại, bất sanh bất diệt.

Tín hiệu ấy đã như tiếng khánh khi bước chân qua cổng nền đất cũ, nếu lắng nghe thì đã vọng tiếng chào hiền dịu từ góc vườn có cây nhãn cổ thụ bỗng sây hoa vào tháng ba, tiếng thì thầm thoáng hơi sữa ngọt của triệu triệu chấm nhãn vàng mơ lẫn trong nắng sớm, bước thêm bước nữa đã gặp màu xanh lá chuối như lời ru, nhìn sâu vào màu xanh ấy có thể nghe thêm tiếng mưa thủ thỉ một thời thơ dại rúc vào lòng bà những đêm mùa đông rét mướt, chạm được luôn cả thân thể ấm áp của bà. Bước quẩn quanh bất ngờ nghe hoa sứ khai hương như đang vẽ nét nhan như ngọc của người cha khuất bóng từ lâu, tưởng như đã xóa nhòa trong ký ức trẻ thơ, bỗng hiển hiện nguyên trinh trên đài hoa hương nguyện. Bước trật chân trên cỏ rối lại nghe tiếng cười ái ngại của chị gái hiền đâu đây, chợt thấy nét thuỳ mỵ diễm tuyệt đến phải quy hàng chỉ còn biết thương hết nỗi thương. Có bước gấp để đuổi kịp gió đang gom những mùi hương nhẹ nhất trong khu vườn dấu kín một nơi, và gặp nụ cười chúm chím của anh trai đang đùa em dấu chùm vải sau lưng, bắt phải đi tìm… Lại có khi dừng bước không đi ngoái tìm bông hoa núp lá bất ngờ tiết lộ mùi hương ngọt ngào như hương thơm da thịt của mẹ thời tóc dài chấm gót… Lại có khi rón rén để đừng xao động bóng chim hay cánh bướm đang nhỡn nhơ trên cỏ rồi ngẩn người chợt thấy mẹ và chị thấp thoáng sau cây hải đường vào ra như những ngày xưa ấy. Và sẽ kể hoài không dứt như câu chuyện của bà đã kể và còn đang kể trên lá trên hoa trong khu vườn ấy khi chân bước đến, khi tay lật viên gạch cũ thấy lại dấu tích ngày trước, khi lòng nóng hổi muốn gầy dựng lại mái xiêu, khi tâm thành như đất vườn được xới bốc hơi nuôi nấng con người, cây cỏ…

Hầu như mỗi phút, mỗi giây cuộc gặp gỡ đều có thể xảy ra, không phải ngày xưa ấy, mà bây giờ, nơi đây, trong khoảnh khắc hiện tại, trên đầu giọt sương, trên đầu bọt nước, trên từng bào ảnh, tên từng mộng huyễn, vô lượng kiếp kiếp, vô lượng chúng sanh, vô lượng vạn vật, không phải là mơ mà thật ngay nơi đây, giờ khắc này, như hoa mưa vừa bừng nở sáng lóng lánh trên màu xanh vọng tiếng…

Ghi chú:

* Ngày rằm tháng bảy, lễ Vu Lan, theo Phật giáo, là ngày tự tứ đầu tiên Đức  Phật trở lại giảng kinh và cũng là ngày tôn giả Mục Kiền Liên theo lời Phật mang “bồn Vu Lan“ đi quanh đảnh lễ những vị A La Hán xin nhờ trợ lực cứu mẹ ra khỏi đọa đày. Với TÌNH THƯƠNG MẸ, ngài Mục Kiền Liên đã thực hiện cơ hội giải phóng giác ngộ thành Phật mở rộng đến những cõi âm ti, đem từ bi và hi vọng đến những nơi vô vọng nhất của con người.

Tham khảo:

[1] http://tiasang.com.vn/-van-hoa/vu-lan-hue-thap-thoang-tro-ve-4270

Tác giả