Startup Việt với vấn đề pháp lý: Thái độ quyết định kết quả

Có một “truyền thuyết” (myth) được lưu truyền trong giới startup là cứ 10 startup thì có 8 dự án thất bại. Trong số những nguyên nhân thất bại của startup trên thế giới do tạp chí Forbes thống kê, hơn một nửa là từ đổ vỡ trong quan hệ nội bộ, những lúng túng trong quan hệ với cơ quan nhà nước hay những câu chuyện “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt” trong quan hệ với đối tác… Tất cả những điều đó đều phản ánh những vướng mắc pháp lý nổi bật mà startup nói riêng mà doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) nói chung thường gặp phải.

Quản trị nội bộ doanh nghiệp – tề gia rồi mới trị quốc

Mô hình điển hình của các startup là những người cùng nung nấu một ý tưởng sáng tạo, thường là anh em, bạn bè cùng nhau chia sẻ đam mê, từ đó phát triển, thành lập công ty. Để tiết kiệm chi phí và thêm phần yên tâm, trong giai đoạn đầu, startup thường không tuyển dụng lao động ngoài mànhờ người thân, bạn bè giúp đỡ trong hoạt động của công ty. Những tưởng rằng với mô hình hoạt động được xây dựng bằng cả niềm tin và tình thân sẽ ngày một vững bền, nhưng chính mô hình hoạt động này lại tiềm ẩn những nguy cơ “khai tử” startup. Sự không phân tách rõ ràng giữa quan hệ thân thuộc và quan hệ kinh doanh đã dẫn đến không ít những lục đụctrongnội bộ doanh nghiệp. Mập mờ về tỷ lệ vốn góp, không thống nhất về cách thức điều hành, quản lý doanh nghiệp, phân chia lợi nhuận không công bằng, không tìm được tiếng nói chung trong hoạt động quản trị, tất cả đều trở thành nguyên nhân cho những cuộc chia ly trong nội bộ công ty. Sau những biến cố xảy ra, tình anh em rạn nứt, công ty phải tái cơ cấu trong bối cảnhngười đi kẻ ở. Thậm chí những mâu thuẫn nội bộ nếu không được giải quyết thấu đáo có thể đẩy lên thành tranh chấp dân sự, thương mại, đôi bên cùng kéo nhau đến chốn pháp đình để có được phán quyết cuối cùng.

Một khóa khởi sự dành cho các start up tại BKholdings. Ảnh: BKholdings.

Một vấn đề cần thẳng thắn nhìn nhận là không nhiều DNNVV có hiểu biết pháp luật cơ bản về hoạt động doanh nghiệp. Những kiến thức thông thường như công ty TNHH hai thành viên trở lên phải có Sổ đăng ký thành viên, thành lập doanh nghiệp xong thì phải góp đủ vốn trong 90 ngày… không được nhiềudoanh nghiệpđể tâm biết tới. Hay nhiều trường hợp khi thành lập công ty thì nhất quyết muốn thành lập công ty cổ phần vì nghe có từ “cổ phần” thấy “sang lên mấy phần” dù không biết công ty cổ phần khác công ty TNHH chỗ nào.Cá biệt, có những trường hợp thành lập xong doanh nghiệp màkhông đến công ty tư vấn để lấy Điều lệ, đến khi có tranh chấp về tỷ lệ góp vốn mới đến công ty tư vấn để đòi…Những câu chuyện này đều không hiếm lạ trong giới tư vấn thành lập doanh nghiệp.

Sự thiếu hiểu biết về pháp luật cơ bản còn thể hiện trong mối quan hệ giữa DNNVV với người lao động. Không hiếm tình trạng doanh nghiệp chấm dứt hợp đồng lao động mà không báo trước thời hạn pháp luật quy định, từ chối đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động với lý do tiết kiệm chi phí hay không xây dựng nội quy lao động vì thấy không quan trọng. Khác với mâu thuẫn giữa anh em, bạn bè, những tranh chấp giữa doanh nghiệp với người lao độngtrong nhiều trường hợp khó có thể giải quyết bằng tình cảm, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải mất thời gian và chi phí để theo đuổi việc giải quyết tranh chấp tại cơ quan có thẩm quyền.

Quan hệ với cơ quan nhà nước – tiên trách kỷ, hậu trách nhân

Khi bàn tới mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước (CQNN) và doanh nghiệp, không thể không đề cập đến thủ tục hành chính (TTHC). TTHC gắn liền với doanh nghiệp từ khi khai sinh đến khi khai tử và xuyên suốt quá trình hoạt động. Việc thực hiện TTHC khiến phần đông doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV (bao gồm startup) kêu khổ, kêu khó.Tạm bỏ qua những bất cập trong quy định pháp luật hay quá trình giải quyết TTHC của CQNN, cần thẳng thắn nhìn nhận những vấn đề còn tồn tại của DNNVV nói chung, bao gồm cả startup trong quá trình thực hiện TTHC. 

Nhiều DNNVV thực hiện TTHC với tâm lý đối phó, thụ động. Ngay trước khi thực hiện TTHC, doanh nghiệpkhông tìm hiểu thông tin mà chỉ đợitrực tiếp đến CQNN xin tư vấn. Không có sự chuẩn bị trước kết hợp với tâm lý dựa dẫm, trông chờ vào “hướng dẫn cụ thể từ phía CQNN” khiến cho doanh nghiệpthường không bắt được trọng tâm thông tin khi được hướng dẫn, càng không rõ những vấn đề cần lưu ý để tham vấn, thậm chí chuyện đến nhầm cơ quan để xin tư vấn cũng không phải không có. Hậu quả của việc không nắm chắc quy trình thực hiện TTHC là việc chuẩn bị thiếu hồ sơ, điền sai thông tin, nhầm mẫu đơn… Đến lúc hồ sơ bị yêu cầu sửa đổi, bổ sung, doanh nghiệp lại cho rằng mình bị CQNN gây khó dễ. 

Các CEO startup nhận tư vấn của Luật sư Nguyễn Văn Lộc – một trong các chuyên gia pháp lý về M&A và thị trường vốn. Ảnh: Dreamplex.

Một hướng giải quyết cho tình trạng trên là thuê đơn vị tư vấn ngoài để tư vấn/giúp doanh nghiệp thực hiện TTHC. Tuy nhiên, bài toán về chi phí tư vấn và cân nhắc về hiệu quả thực tế khiến doanh nghiệp ngần ngại, đắn đo khi lựa chọn phương thức này. Một ví dụ điển hình cho trường hợp này chính là việc thực hiện các nghĩa vụ về thuế – TTHC có tần suất thực hiện diễn ra khá thường xuyên trong hoạt động của mọi doanh nghiệp. Nghiệp vụ thuế đòi hỏi chuyên môn và kinh nghiệm đặc thù, với quy mô vốn và nhân lực ở mức vừa và nhỏ, việcDNNVV có đội ngũ kế toán chuyên nghiệp để thực hiện các nghĩa vụ về thuế và quản lý, lưu trữ sổ sách, tài liệu kế toán gần như là bất khả thi. Cộng vớiviệc không kịp nắm bắt các thay đổi trong quy định về thuế vốn diễn ra thường xuyên, các DNNVV thường gặp nhiều lúng túng, thậm chí là sai phạm trong quá trình thực hiện các nghĩa vụ này. Tuy nhiên, giải pháp thuê tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế (đại lý thuế) để thực hiện nghĩa vụ về thuế cũng không được các DNNVV tìm đến bởi đại lý thuế chỉ được thực hiện các thủ tục về thuế1mà không được thực hiện các dịch vụ về kế toán vốn có quan hệ mật thiết đến các nghĩa vụ thuế. Kể cả có chấp nhận thuê đại lý thuế, không ít trường hợp DNNVV lựa chọn những bên cung cấp dịch vụ không đảm bảo chất lượng với mục đích tiết kiệm chi phí để rồi tiền mất tật mang.

Thái độ của DNNVV khi làm việc trực tiếp với CQNN cũng cần được xem xét. Không ítDNNVVmắc bệnh “sợ” CQNN. Thái độ e ngại, dè chừng CQNN của DNNVV thể hiện ở nhiều khía cạnh như khi đi xin ý kiến tư vấn của CQNN thì không dám hỏi nhiều, sợ “cán bộ phiền”; nhận được công văn của CQNN thì bất an, lo lắng; CQNN xuống thanh tra, kiểm tra thì sợ bị làm khó, bới móc sai phạm, ngay cả khi không có sai phạm gì. Có “sợ” ắt có “kính”, phương thức “kính” truyền thống của DNNVV chính là… phong bì. Hiện tại, việc phát sinh các chi phí không chính thức khi làm việc với CQNN của DNNVV trong một số trường hợp không phải do phía CQNN chủ động mà chính là từ phía doanh nghiệp với quan niệm “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn”.

Quan hệ với đối tác, khách hàng – nói lời phải giữ lấy lời

Khi kinh nghiệm kinh doanh không có nhiều, startup thường không lường trước được những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp, dẫn tới việcvi phạm nghĩa vụ hợp đồng với đối tác như giao hàng không đúng thời hạn, chậm thanh toán giá trị hợp đồng. Bên cạnh đó, cũng có không ít trường hợp DNNVV nói chung còn tỏ ra thiếu chuyên nghiệp trong việc sử dụng các công cụ pháp lý để bảo vệ mình trong các quan hệ thương mại. Lấy ví dụ, có trường hợp luật sư bị khách hàng chê hợp đồng do luật sư soạn quá dài, quá nhiều điều khoản và yêu cầu rút gọn hợp đồng xuống hai trang, nội dung không quan trọng, chỉ cần ngắn gọn. Hay có những doanh nghiệp từ chối lập giấy ủy quyền, hợp đồng vì cho rằng “anh em tin nhau là chính” rồi cũng chính những người anh em ấy lại đưa nhau ra Tòa để phân xử vì chẳng nhớ đã đàm phán với nhau những gì.Tất cả những yếu tố trên đều có thể ảnh hưởng không nhỏ đến mối quan hệ giữa DNNVV và khách hàng. Thiệt hại nhẹ thì mất uy tín với đối tác, mất uy tín trên thị trường, vi phạm nghĩa vụ thực hiện hợp đồng có giá trị lớn có thể phát sinh tranh chấp mà nếu giải quyết không thấu đáo, kiện tụng là điều khó tránh khỏi.

Ngoài khách hàng và đối tác kinh doanh, nhà đầu tư là những người mà startup duy trì mối quan hệ lâu dài. Nhưng nhà đầu tư là “thiên thần” hay “cá mập” thì còn phụ thuộc vào việc startup đánh giá rủi ro pháp lý khi thương thuyết. Việc không suy xét kỹ càng có thể dẫn tới nguy cơ nhà đầu tư đoạt quyền quản lý công ty.Một founder của startup về karaoke từ bà chủ trở thành nhân viên trong chính công ty của mình khi quá tin tưởng vào những hứa hẹn của nhà đầu tư mà không biết rằng nếu nhà đầu tư sở hữu 70% cổ phần công ty, quyền quyết định hoạt động thuộc về họ.

Có câu “30 chưa phải là Tết”, không thể nói trước được khi startup và nhà đầu tư về chung một nhà sẽ không phát sinh tranh chấp. Sau một thời gian chung sức, chung lòng với nhà đầu tư,startup chợt nhận ra rằng thương vụ này quá bất lợi cho mình, nảy sinh tâm lý “nạn nhân” cần được giải cứu. Nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có thể may mắn gửi đơn kêu cứu kịp thời và được “giải cứu” êm đẹp như Ba Huân. Đặt vào trường hợp giữa startup và nhà đầu tư, nếu hai bên không thể hòa giảimà phải nhờ đếnnhững biện pháp giải quyết tranh chấp như Tòa án, liệu giữa startup non trẻ và nhà đầu tư với kinh nghiệm thương trường dày dặn, phán quyết của Toà án sẽ nghiêng về bên nào?

Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ -Mất bò mới lo làm chuồng

Đứng trên góc độ khởi nghiệp sáng tạo, trong một số trường hợp, quyền sở hữu trí tuệ (“SHTT”) có vai tròsống còn đối với startup. Tuy nhiên, không phải startup nào cũng có sự quan tâm đúng mức về giá trị của loại tài sản vô hình này. 

Tư tưởng này được thể hiện rõ ngay từ ý thức tìm hiểu thông tin về quyền SHTT của các startup nói riêng và DNNVV nói chung. Nhiều doanh nghiệp không hề lưu tâm đến quyền SHTT cho đến khi phát hiện sản phẩm của mình đã bị sao chép, thậm chí chỉ phát hiện sau khi chính doanh nghiệp sao chép đăng ký bảo hộ xong xuôi. Thậm chí, dù có nhận thức về quyền SHTT và tiến hành việc đăng ký bảo hộ thì việc thực hiện quyền lợi này cũng chỉ mang tính đối phó. Tương tự như câu chuyện về Điều lệ đã đề cập ở trên, đã có nhữngdoanh nghiệp khi thuê đơn vị tư vấn thực hiện việc đăng ký có thái độ phó mặc mọi sự cho đơn vị tư vấn, không hề hỏi han tiến độ thực hiện, thậm chí đến văn bằng bảo hộ cũng không buồn lấy về.

Mặt khác, việc không có hiểu biết về quyền SHTT cũng gia tăng khả năng các startup xâm phạm quyền của chủ thể khác. Một thực tế điển hình là trong giai đoạn phát triển ý tưởng về sản phẩm, nhiều startup chưa có thói quen tra cứu về khả năng xuất hiện sản phẩm cùng loại, cùng công dụng đã được đăng ký bảo hộ thành công. Đến lúc nhận được thư phản đối của chủ sở hữu các sản phẩm đã đăng ký, các startup mới “tá hỏa” bởi không chỉ sản phẩm không có khả năng được bảo hộ mà chính startup còn có thể dính vào các vụ tranh chấp tốn kém. 

Cần lưu ý rằng, việc đăng ký bảo hộ quyền SHTT thực chất mới chỉ là bước đầu của cơ chế bảo vệ và khai thác quyền SHTT. Trên cơ sở được pháp luật bảo hộ quyền SHTT, các startup ngoài việc có thể tự bảo vệ tài sản của mình khỏi sự xâm hại mà còn có thể tham gia khai thác triệt để giá trị thương mại của quyền SHTT thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh, chuyển giao quyền, thậm chí sử dụng quyền SHTT như biện pháp kinh doanh mang tính chiến lược, dài hạn. Do vậy, startup không bảo vệ tốt quyền SHTT chẳng khác nào ném tiền qua cửa sổ.

————

Chú thích:

Văn bản hợp nhất 03/VBHN-VPQH năm 2016 hợp nhất Luật Quản lý thuế, Điều 20, khoản 1.

Tác giả