Các trường đại học Nga: Đi tìm sự ưu tú đã mất hay xây dựng những trường hoàn toàn mới? (Kỳ cuối)*

Về sinh viên, có một số vấn nạn chính. Trước hết là vấn đề cơ hội tiếp cận GDĐH nói chung, và tiếp cận GDĐH có chất lượng nói riêng.

Sinh viên, chính sách tuyển sinh, cơ cấu và chất lượng giáo dục

Cho đến rất gần đây, tức kể cả trong thời Xô-viết lẫn hậu Xô-viết, việc tuyển sinh vào các trường đều là dựa trên kỳ thi tuyển sinh đại học. Hệ thống này có nghĩa là mỗi SV tương lai đều phải trải qua kỳ thi do mỗi trường tổ chức, luôn luôn do các giáo sư của trường đó thực hiện. Kết quả là, tài liệu thi về hình thức thì dựa trên chương trình phổ thông nhưng trong thực tế các trường sẽ có những yêu cầu cụ thể nhất định đòi hỏi những kỹ năng quan trọng để làm được bài tức là để vào được đại học. Để đạt được những kỹ năng cụ thể ấy, các em học sinh thường phải học những khóa luyện thi ở trường đại học hoặc thuê thầy dạy kèm (thường là giảng viên của đại học mà các em định thi). Một hệ thống như thế có nghĩa là tham nhũng đầu vào ở mức độ cao, động lực chuyên môn thấp, và nhìn chung là dựa trên khả năng tài chính của gia đình người học. Ví dụ, nhiều em học sinh trung học ở vùng sâu vùng xa không thể lo liệu được tiền đến Moscow hay Saint Petersburg để dự thi đại học, nói gì đến việc học luyện thi như thế.

Từ năm 2009, việc tuyển sinh dựa vào kết quả kỳ thi thống nhất trong cả nước, bắt buộc đối với mọi học sinh phổ thông. Kỳ thi này vừa là tốt nghiệp phổ thông, vừa là tuyển sinh đại học. Quy trình mới này có nhiều hệ quả (xem chi tiết Prakhov, Yudkevich (2012)). Trước hết, các trường đại học mất kiểm soát với việc tuyển sinh. Họ không thể đưa ra những đòi hỏi cụ thể đối với thí sinh như trước và cũng không có quyền lựa chọn đối với từng thí sinh. Hơn nữa, chi phí nộp đơn thi đã giảm đáng kể (học sinh không cần đến thành phố nơi trường tọa lạc để thi nữa mà có thể gửi hồ sơ qua bưu điện). Giờ đây họ có thể dễ dàng nộp đơn nhiều trường cùng lúc, và cũng không tốn kém mấy để dự thi, do các trường không còn những yêu cầu cụ thể như trước. Việc áp dụng kỳ thi thống nhất cả nước này là một bước thay đổi cơ chế tổ chức lớn nhất gần đây ở Nga. Nó cũng đã thay đổi những khích lệ đối với các vai chính yếu của GDĐH. Tuy thế, dù có một số kết quả tích cực, vẫn còn nhiều vấn đề phải giải quyết. Ví dụ, một trong những kỳ vọng ban đầu là kỳ thi này sẽ giúp có thể đánh giá kết quả hoạt động của các trường phổ thông, từng trường và từng vùng. Một kỳ vọng khác là kết quả thi và điểm đầu vào của các trường sẽ là chỉ báo tốt cho mức độ chọn lọc của từng trường và cung cấp thông tin tham khảo cho học sinh khi chọn trường. Tuy nhiên trong thực tế những thông tin này không phải lúc nào cũng được công bố trong lúc dữ liệu về các trường và các vùng thì bị hạn chế. Một số chuyên gia cho rằng lý do để giữ kín những số liệu ấy là do những thay đổi quy mô lớn liên quan tới gian lận thi cử ở một số vùng. Trong mọi trường hợp, những dữ liệu này thậm chí còn không được cung cấp cho người nghiên cứu, nên nó không thể dùng để đánh giá các trường phổ thông và đại học.

Một vấn đề khác là cơ cấu của các chương trình đào tạo và chất lượng giáo dục nói chung. Xưa nay trong hệ thống giáo dục Xô-viết, học sinh về cơ bản phải lựa chọn ngành học trước khi được nhận vào trường hoặc đôi khi và năm thứ ba khi bắt đầu phân chuyên ngành. Các môn trong chương trình học của SV được xác định dựa trên chuyên ngành này. Ngày nay đã có xu hướng cho SV nhiều cơ hội hơn để xây dựng con đường học tập của riêng họ, bằng cách đưa ra nhiều môn tự chọn, nhưng kết quả của việc này xem ra vẫn còn khá mơ hồ. Nhiều trường vẫn làm theo lối cũ vì như thế lên kế hoạch sẽ dễ dàng hơn.

Một hệ thống lỗi thời như thế là một trong các nhân tố dẫn đến tình trạng thất nghiệp phổ biến trong SV tốt nghiệp. Nhiều SV bắt đầu làm việc (thường là toàn thời gian) ngay từ năm đầu thậm chí cả những SV chính quy toàn thời gian. Sự cân bằng này, trong đó các bên không có động lực nào để thay đổi hành vi của mình, dựa trên một thực tế là nhà tuyển dụng không quan tâm tới việc SV đang học năm thứ mấy hoặc trường nào (chỉ trừ một vài trường top là ngoại lệ) mà quan tâm hơn đến khả năng và kinh nghiệm (Apokin, Yudkevich (2011)), là điều khiến cho GDĐH ít quan trọng hơn với tư cách là dấu hiệu của năng lực trên thị trường lao động.

Một vấn đề sâu xa hơn đã khiến SV bắt đầu làm việc từ sớm là động lực học tập của họ. Ngày nay khi hầu hết học sinh phổ thông đều được đào tạo sau trung họ cách này hay cách khác, người ta có những động lực rất khác nhau, có nền tảng văn hóa và vốn xã hội rất khác nhau khi vào ĐH, những điều hẳn nhiên là quan trọng để có quyết định đúng. Kết quả là, hệ thống GDĐH đã nhận nhiều SV yếu kém không đủ năng lực để theo học. Thí dụ, nghề kỹ nghệ đang là nghề óach nhất hiện nay, thế là nhiều học sinh có kết quả thi rất xoàng cũng nộp đơn vào ngành này, đơn giản là vì đàng nào thì cũng sẽ chẳng có nơi nào nhận họ. Một số em có điểm toán rất thấp bắt đầu học những ngành kỹ thuật, nơi mà kỹ năng toán là cốt yếu. Họ thậm chí không nghĩ về việc mình sẽ làm công việc gì trong ngành này bởi vậy cũng không chú tâm vào việc học. Như đã nói trên, các trường không muốn mất SV vì lý do tài chính, kết quả là nhà trường phải thỏa hiệp và hạ thấp tiêu chuẩn chất lượng cũng như yêu cầu đối với SV tương lai. Kết cục là, cái vốn xã hội tích lũy được ở các trường đại học là cực kỳ thấp.

Cuối cùng, đó là vấn đề quốc tế hóa, có thể nói là quá thấp cả với SV lẫn GV. Trong thời Xô-viết, các trường có những chương trình đặc biệt dành cho các nước đang phát triển nhưng những SV này không phải tự mình trả tiền, mà chi phí của họ được chính phủ nước họ chi trả trong khuôn khổ những chương trình dự án lớn. Năm 2003, nước Nga ký hiệp ước Bologna tức đã tham gia Tiến trình Bologna, nhưng sự luân chuyển SV – cả đến và đi – vẫn rất thấp (tuy có chút ít thay đổi tích cực đối với việc ra nước ngoài học của SV. Số SV đến học tại Nga thấp là do vấn đề ngôn ngữ, chi phí sinh hoạt đắt đỏ, chỗ trọ khó khăn, hạ tầng cơ sở địa phương chưa tốt. Việc chuyển đổi tín chỉ ECTS cũng thường khá khó khăn. Tuy thế, những SV đến từ nước ngoài có ý nghĩa quan trọng trong việc phá vỡ sự khép kín và chỉ biết tập trung vào chính họ của hệ thống quốc gia Nga. Họ cũng có thể có một tác động với SV Nga thông qua việc đem lại cho SV Nga những trải nghiệm trong giao tiếp quốc tế.

Những vấn đề quan trọng cần nghiên cứu

Tuy có rất nhièu vấn đề thú vị trong lĩnh vực GDĐH Nga, chúng tôi muốn tập trung vào bốn điểm quan trọng sau đây trong lịch trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu về GDĐH Nga, mỗi chủ đề đều có những thách thức nhất định.

Trước hết, cần tạo ra một hệ thống phân tích với những dữ liệu tương thích với nhau và có thể so sánh được giữa các trường ở cả cấp độ vĩ mô và vi mô. Có nhiều thông tin đầy tiềm năng và lý thú với các nhà nghiên cứu. Các trường công đáng lẽ phải nộp dữ liệu này cho Bộ Giáo dục và Khoa học, hoặc Bộ chủ quản của họ. Họ cũng sẽ phải nộp dữ liệu theo yêu cầu của các bộ trong trường hợp khảo sát giám sát định kỳ (ví dụ như giám sát vấn đề lương GV). Thế nhưng, hiện nay những thông tin như thế không hề có sẵn cho các nhà nghiên cứu, tuy họ có thể tạo điều kiện cho các chuyên gia tham gia vào việc đánh giá hiệu quả hoạt động của các trường (cả về phương pháp và việc thực hiện), và xây dựng các tiêu chí đánh giá hiệu quả.

Khu vực tư thậm chí còn ít minh bạch hơn và điều này chẳng phải chỉ có ở mỗi nước Nga, bởi vậy dữ liệu về khu vực GDĐH tư thậm chí còn ít hơn. Tuy nhiên, tình trạng có rất ít thông tin (chẳng hạn, về điểm trung bình kỳ thi tuyển sinh đại học thống nhất quốc gia, số lượng GV hay tổng diện tích phòng học, v.v) gợi ý một tình thế rất không may. Sự có sẵn những thông tin minh bạch có thể góp phần thực hiện tốt hơn các chức năng của khu vực tư (ví dụ như làm giảm mức độ thiếu công bằng về thông tin cho những khách hàng tiềm năng). Nhìn tổng thể, sự có sẵn nhiều thông tin và dữ liệu chi tiết là điều tối cần cho hiệu quả của cải cách và hiệu quả của việc sử dụng ngân sách đúng mục tiêu.

Một mục tiêu khác là tạo ra một cái nền phân tích của chuyên gia cho những cải cách trong GDĐH. Khu vực GDĐH đang trải qua những thay đổi về tổ chức hết sức lớn lao, những thay đổi sẽ tác động đến tất cả mọi bộ phận, mọi thành viên đang tham gia vào thị trường, ví dụ các gia đình có con đi học, các trường ĐH, các nhà tuyển dụng. Thay cho những cuộc tranh luận đang bị chính trị hóa về việc ai được ai mất trong cuộc cải cách, cộng đồng chuyên gia cần xây dựng một thước đo đánh giá kết quả của cải cách dựa trên nghiên cứu và phân tích thực nghiệm. Trong số những vấn đề cần xem xét là hậu quả của cơ chế tuyển sinh đại học mới áp dụng (xem Ampilogov, Prakhov, Yudkevich (2013) và Prakhov, Yudkevich (2012)) hay hiệu quả của những chương trình tài trợ có mục tiêu cho các trường đại học nghiên cứu. Mô hình nào khả dĩ để có thể đánh giá những thay đổi nhất định về tổ chức và thể chế ở các trường? Cần những dữ liệu nào cho một kiểm tra thực nghiệm? Những câu hỏi như thế rất cần được trả lời. Có một số thử nghiệm trên quy mô lớn đang được tiến hành (ví dụ như về lương GV). Sự tham gia của các chuyên gia GDĐH, các nhà kinh tế và xã hội học là điều hết sức cốt yếu trong việc lập kế hoạch và điều chỉnh kết quả của những thực nghiệm ở tầm quốc gia.

Một sự hiểu biết đầy đủ hơn về mô hình tổ chức cấp trường của GDĐH Nga và thiết chế tổ chức cụ thể của nó cũng là một nội dung trong lịch trình của các chuyên gia nghiên cứu GDĐH cả cơ bản lẫn ứng dụng. Những kinh nghiệm thành công của các trường nước ngoài có thể cấy trồng ở mức độ nào trong thị trường GDĐH Nga? Đâu là vai trò của các chuẩn mực văn hóa trong việc làm nảy nở sinh sôi một cách vững chắc những quy tắc và thực tiễn không hiệu quả?

Đó vẫn là những câu hỏi mở đối với rất nhiều trường đại học trong thị trường GDĐH Nga.

Một chủ đề tranh luận căng thẳng trong giới chuyên gia Nga là khái niệm họp đồng lao động có hiệu quả đối với GV đại học (Kuzminov (2012)). Hợp đồng này nên được soạn thảo như thế nào để thu hút được các nhà chuyên môn giỏi nhất và thúc đẩy họ làm nghiên cứu? Triển vọng của việc áp dụng các hợp đồng biên chế ở Nga sẽ là như thế nào? Vai trò của những hợp đồng như thế là gì trong việc tạo dựng những trường đại học nghiên cứu? (xem Khovanskaya, Sonin, Yudkevich (2009))? Tất cả những câu hỏi ấy chỉ có thể trả lời bằng nghiên cứu nghiêm túc của các chuyên gia về lý thuyết hợp đồng cùng với chuyên gia về GDĐH.

Cuối cùng, các nhà nghiên cứu Nga cần tham gia vào các hội đồng hay các dự án nghiên cứu so sánh giữa các nước trong nhóm như các nước BRIC, các nước hậu Xô-viết, các nước châu Âu. Họ đang tham gia một số dự án như thế (xem Altbach và cộng sự (2012), Altbach và cộng sự (2013), Carnoy (2013), Gokhberg (2011)) nhưng cần thường xuyê hơn nữa. Những sự tham gia như thế có thể đưa một cộng đồng chuyên gia lớn hơn đến với nước Nga, nhưng quan trọng hơn là điều đó cần cho các nhà nghiên cứu Nga bởi vì nhiều vấn đề và giải pháp không thể nào thấy được từ vị trí của người ngoài cuộc mà cần phải nghiên cứu từ bên trong. Các công trình nghiên cứu so sánh sẽ giới thiệu với các nhà nghiên cứu những điều kiện trong đó những tác động này bị triệt tiêu bởi tác động khác, tạo ra sự quân bình ổn định hay một hệ thống không đổi, những mặt tích cực và tiêu cực của nó, và những nhân tố ổn định, nhờ đó giúp họ nhìn thấy những giải pháp khả dĩ cho những vấn đề của nước họ. Ví dụ, các nhà nghiên cứu Nga đã tham dự một dự án nghiên cứu so sánh thu nhập của GV trong 28 nước (Altbach và cộng sự (2012) và một dự án nhằm vào triển vọng nghề nghiệp của GV trẻ trong 10 nước (Yudkevich và cộng sự (2014)).

Tóm lại, chúng ta có thể nói rằng việc nghiên cứu về GDĐH hiện nay đang đối mặt với một số mục tiêu chính trị cũng như những mục tiêu thuần túy học thuật, những thứ vốn đan quyện vào nhau. Những cải cách thể chế mới trong không gian GDĐH chỉ có thể dựa trên những mô hình phân tích và dữ liệu thực nghiệm cho phép nhìn thị trường hàn lâm Nga trong tương quan so sánh toàn cầu. Những cải cách như thế là hết sức cốt yếu để tăng cường năng lực cạnh tranh của các trường đại học Nga trong thị trường học thuật toàn cầu và tạo ra một hệ thống GDĐH đủ sức đáp ứng với những thách thức của thị trường lao động thế giới. Những mục tiêu này chỉ có thể đạt được bằng cách tiến về phía trước thay vì cố sửa chữa hay chống đỡ cho quá khứ.

Tài liệu tham khảo

Altbach P. và cộng sự. (eds.) The Global Future of Higher Education and the Academic
Profession. Palgrave McMillan, 2013.

Altbach P. (ed.) International Academic Profession. Portraits of Fourteen
Countries. Jossey-Bass Publishers, 1996.

Altbach P. và cộng sự. (eds.) Paying the Professoriate. A Global Comparison of
Compensation and Contracts. Routledge, 2012.

Altbach P., Rapple B. (2012) Anarchy, Commercialism, and “Publish or Perish”,
International Higher Education, No. 67, P. 5-6. 315

Ampilogov A., Prakhov I., Yudkevich M. (2013) One or Many? Using the new
opportunities of the Unified State Exam, HSE Working paper, 2013.

Androushchak G., Kuzminov Y., Yudkevich M. (2013) Changing Realities:
Russian Higher Education and the Academic Profession, P. 56 – 92 // in
Altbach P. và cộng sự. (eds.) The Global Future of Higher Education and the
Academic Profession. Palgrave McMillan, 2013.

Apokin, A., Yudkevich M. “Analysis of Student Employment in the Context of
Russian Labor Market.” Voprosy Ekonomiki 6 (2011).

Carnoy M., Loyalka P., Dobryakova M. S., Dossani R., Froumin I., Kuhns
K., Tilak J. B., Rong W. University Expansion in a Changing Global

Economy: Triumph of the BRICs? Stanford: Stanford University, 2013.

Gokhberg L., Kuznetsova T., Zaichenko S. Russia: Universities in the Context of
Reforming National Innovation System, in: Goransson B., Brundenius C.
(eds.) Universities in Transition: The Changing Role and Challenges for
Academic Institutions. Springer, 2011. P. 247-260.

Horta, H., F. M. Veloso, R. Grediaga. “Navel gazing: Academic inbreeding and
scientific productivity.” Management Science 56.3 (2010): 414-429.

Khovanskaya, I., Sonin K., Yudkevich M. A Dynamic Model of the Research
University (October 2009). Available at SSRN:
http://ssrn.com/abstract=1103291

Kuzminov, Y. (2012) Academic Community and Contracts: Modern Challenges
and Responses, P. 331 – 340 // in Altbach P. và cộng sự. (eds.) Paying the
Professoriate. A Global Comparison of Compensation and Contracts.

Routledge, 2012.

Pislyakov (2013)

Prakhov I., Yudkevich M. University Admission In Russia: Do the Wealthier
Benefit from Standardized Exams? (February 16, 2012). Higher School of
Economics Research Paper No. WP BRP 04/EDU/2012. Available at
SSRN: http://ssrn.com/abstract=2005108

Rozovsky H. (2012) Presentation at the seminar “At the Forefront of International
Higher Education”: https://www.youtube.com/watch?v=jqpUUOWa4Ec
(accessed August 24 2013)

Salmi, J. (2013) Inside Higher Ed Blog. University Mergers in Russia: Not an Easy
Route to Success April 7, 2013.

http://www.insidehighered.com/blogs/world-view/university-mergersrussia-
not-easy-route-success (accessed at August 24 2013)

Sivak E., Yudkevich M. (2013) Academic Profession in a Comparative
Perspective: 1992–2012 // Foresight Russia, P. 32 – 41.

Sokolov (2012)

Yudkevich M. (2013). Inside Higher Ed Blog. University Mergers in Russia:
Happy Marriage or Misalliance April 22, 2013.

http://www.insidehighered.com/blogs/world-view/university-mergersrussia-
happy-marriage-or-misalliance-0 (accessed at August 24 2013)

Yudkevich M. và cộng sự (2014) The Future of the Academic Profession: Young Faculty
in International Perspective. Forthcoming.

Yudkevich M. và cộng sự. (2012) Changing Academic Profession: Russia country
report, HSE.316

Yudkevich M., Sivak E., University Inbreeding: An Impact on Values, Strategies
and Individual Productivity of Faculty Members (January 31, 2012).

Available at SSRN: http://ssrn.com/abstract=199641

Phạm Thị Ly dịch

* Báo cáo tại hội thảo “Bàn tròn Thảo luận về Nghiên cứu và Chính sách giáo dục đại học quốc tế” tại Thượng Hải, ngày 2 và 3/11/2013

Tác giả