Dự thảo hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi của Luật GDĐH: Những điều cần làm rõ

Hiện nay, Nghị định Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (GDĐH) đang được soạn thảo và lấy ý kiến. Chúng tôi thiển nghĩ rằng, Dự thảo Nghị định này cần tiếp tục được lấy ý kiến rộng rãi, thực lòng, theo nguyên tắc mở và minh bạch! Chỉ khi có ý kiến chuyên môn, với đầy đủ căn cứ từ thực tiễn, trên tinh thần xây dựng, để chỉnh sửa, bổ sung, làm rõ thêm một số vấn đề thì mới có thể có một Nghị định xứng tầm, đủ sức tạo ra sự đồng thuận trong hệ thống giáo dục cũng như trong xã hội, đưa Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH thành sức mạnh vật chất trong tiến trình đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục đại học nước nhà. Gần đây, một số nhà khoa học uy tín và quản lý giáo dục có kinh nghiệm (GS Phùng Hồ Hải, GS Lê Vinh Danh, v.v...) đã có những ý kiến mang tính xây dựng, chân thành về Dự thảo Nghị định này. Ở đây, chúng tôi xin tiếp tục bàn thêm về một số vấn đề với mong muốn sẽ góp phần nâng cao chất lượng Dự thảo lần sau.


Giới chuyên môn kỳ vọng Nhà nước sẽ tạo ra động lực, nguồn lực và áp lực để các CSGDĐH, đều được tự chủ hoạt động và chịu trách nhiệm giải trình. 
Ảnh: Ngày hội tuyển sinh của ĐH Kinh tế Quốc dân, một trong những trường ĐH đầu tiên tự chủ. Nguồn: Tienphong.

Mong mỏi dự thảo đi vào chiều sâu, thực chất

Xã hội, nhất là giáo giới, mong đợi Nghị định này tạo ra các ‘cú hích’: 
(1) Từ ngày 01/7/2019, cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục đại học và các bộ ngành liên quan sẽ luôn đồng hành cùng các cơ sở giáo dục đại học (CSGDĐH) để đưa tự chủ đại học đi vào chiều sâu, đi vào thực chất, dưới sự dẫn dắt của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH và các Nghị định, Thông tư liên quan; không còn cảnh trống đánh xuôi kèn thổi ngược, các quy định cứng nhắc hoặc mang tính nước đôi ảnh hưởng đến việc tự chủ của các trường.  
Luật đã giao Chính phủ quy định chi tiết về tự chủ đối với các CSGDĐH, nên về nguyên tắc, Nghị định sẽ hướng dẫn ngay cơ chế tự chủ trong các CSGDĐH. Nhờ thế, Nghị định này sẽ là các văn bản pháp lý để đời, thúc đẩy và mở rộng quyền tự chủ trên thực tế cho đơn vị sự nghiệp công lập trong giáo dục theo tinh thần NQTW6 và NQTW19 của Đại hội XII, làm thay đổi diện mạo giáo dục đại học Việt Nam (VN). Quyền tự chủ của các CSGDĐH được thể hiện trong Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học và Nghị định qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật phải thông thoáng, rộng mở, ‘tiến bộ’ hơn Nghị quyết 77/NQ-CP về Thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở GDĐH công lập giai đoạn 2014-2017; nếu không, giá trị của Luật và Nghị định đi kèm sẽ bị giảm đi khá nhiều trong quá trình tổ chức thực thi Luật, thậm chí bị coi là ‘lạc hậu’ hơn NQ77, điều mà cả nhà nước và nhân dân đều không mong muốn. 
Nghĩa là, bằng Luật và Nghị định, nhà nước sẽ phải tạo ra động lực, nguồn lực và áp lực để các CSGDĐH, đều được tự chủ hoạt động và chịu trách nhiệm giải trình, có cơ hội bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực, không phụ thuộc vào qui mô, loại hình, tên gọi (trung ương hay địa phương, công hay tư, trường nghiên cứu hay trường ứng dụng, trường quốc gia hay trường đơn ngành)…, chỉ phụ thuộc vào các tiêu chí về hiệu lực quản lý, hiệu quả công tác và năng suất lao động theo các chỉ số đánh giá kết quả KPI (Key Performance Indicator) mà CSGDĐH đã cam kết. 
(2) Nghị định có nhiệm vụ quan trọng là qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật, nên phải đảm bảo rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu để thực hiện đúng; giảm tối đa sự mập mờ, bất định của cụm từ ‘theo qui định’, nhất là trong khi hệ thống pháp luật của chúng ta còn chưa hoàn chỉnh, chồng chéo, nhiều khi còn cản phá và phủ định lẫn nhau. Nếu không, các qui định mập mờ chỉ tạo thêm kẽ hở cho sự tồn tại của cơ chế xin cho, cơ chế cấp phép, không thể là hành lang pháp lý tin cậy cho nền giáo dục tử tế và thiện lương, vì ở đó đã có sẵn mầm mống và sự dung dưỡng cho những điều sai trái! ‘Theo qui định’ càng nhiều thì càng ít tự chủ, càng ít chỗ cho sự xuất hiện của những sáng tạo, đột phá.  
(3) Hệ thống đào tạo đại học cần phải được quốc tế hóa càng sớm càng tốt, càng sâu rộng càng tốt, nhằm sớm có những chuyên gia, các nhà khoa học đầu đàn, các nhà quản lý tài ba, tiệm cận nhanh chóng với các chuẩn mực quốc tế, để đất nước sớm có nguồn nhân lực chất lượng cao, sớm có thể xuất khẩu chuyên gia chứ không chỉ mãi xuất khẩu lao động. Do đó, tư tưởng ‘quốc tế hóa’ rất cần được thể hiện đậm nét trong NĐ.
(4) Muốn có đột phá về thể chế, với xương sống là đưa tự chủ đại học thành thực chất, thì lại cần đột phá về tư duy của Ban soạn thảo (BST) Nghị định. Nếu vẫn với tư duy cũ, vẫn còn hơi hướng xin cho, thì chỉ có thể đưa ra các giải pháp hoặc là nửa vời, né tránh thực tiễn, hoặc là không đủ rõ ràng, không đủ cụ thể, rất khó giải trình, rất khó thực hiện, để các CSGDĐH lại phải ‘lên xin ý kiến’ thì mới biết làm thế nào cho đúng, cho đủ; hoặc là không đủ mạnh, không đủ quyết liệt, để thực hiện đến đầu đến đũa tự chủ đại học. 

Những băn khoăn về Dự thảo

Ý kiến của chúng tôi dựa theo văn bản không số, không đánh số trang, không đề ngày tháng, dưới dòng ‘Dự thảo 6.3’ in hoa là dòng chữ ‘Không phổ biến’ in đậm. Sau khi đọc toàn bộ Dự thảo, chúng tôi thấy còn nhiều băn khoăn, trong đó có những điều cốt lõi là:
Loại hình đại học
Theo dự thảo, các CSGDĐH của VN có thể có loại hình (Điểm a Khoản 1 Điều 2): đại học, trường đại học và học viện. Vậy Nghị định cần có qui định chi tiết và hướng dẫn cụ thể các CSGDĐH này cách ghi tên tiếng Anh của họ trong hồ sơ cũng như trong giao dịch quốc tế để cộng đồng các trường đại học trên thế giới hiểu đúng về hệ thống GDĐH VN.
Trong quy định về việc chuyển trường đại học thành đại học (Điều 4) cũng cần làm rõ: Trong ĐHQG và đại học vùng (ĐHV) có các trường đại học thành viên, vậy các trường đại học thành viên này khi hội đủ các điều kiện và tiêu chuẩn theo qui định để trở thành đại học thì họ có quyền chuyển ‘trường đại học’ của họ thành ‘đại học’ không? hay đã là trường đại học thành viên rồi thì muôn đời muôn kiếp vẫn ở trong cái ô Đại học Quốc gia, Đại học vùng, dù có đa ngành và hùng mạnh đến đâu? Nếu có, thì thủ tục có gì khác so với các trường đại học khác (không thuộc Đại học Quốc gia, Đại học vùng)? Mặt khác, điều kiện chuyển trường đại học thành đại học ghi rõ – ‘có ít nhất 5 trường thuộc trường đại học được thành lập’ (điểm b Khoản 1 Điều 4), tại sao lại là 5 trường? Con số này được đưa ra có dựa trên cơ sở khoa học nào không? 

Thiển nghĩ, nếu có thể thì nên thay các con số nặng về đo đếm theo kiểu ‘cá kể đầu rau kể mớ’ trên bằng các con số thể hiện chất lượng, như số công bố quốc tế, số phát minh sáng chế, số giải pháp hữu ích, số bản quyền công nghệ, v.v… và, thời buổi dân chủ và tự chủ rồi, cũng nên giao cho các trường tự quyết định xem họ có đủ điều kiện và tiêu chuẩn để trở thành đại học hay không. Một khi đã hội đủ các điều kiện do trường đại học tự thẩm định, các trường công khai hồ sơ lên website của họ, đồng thời gửi đến Bộ GD&ĐT và các cơ quan hữu quan, bộ sẽ thẩm định và xác nhận đủ điều kiện. 

Đó là chưa kể, quy định ‘Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm thẩm định hồ sơ và ra quyết định thành lập Trường thuộc cơ sở giáo dục đại học…’ (Điểm c, Khoản 4, Điều 4 của Dự thảo), dường như đang mâu thuẫn với quy định trong Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học:  “Trường là đơn vị đào tạo thuộc cơ sở giáo dục đại học, do hội đồng trường, hội đồng đại học quyết định việc thành lập theo quy định của Chính phủ, tổ chức và hoạt động theo quy chế tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục đại học” (Khoản 7 Điều 4. Giải thích từ ngữ). 

Để thực sự có tự chủ đại học

Xây dựng đại học tự chủ là hình thức chuyển biến cả về chất và lượng trong mối quan hệ giữa Chính phủ với cơ sở giáo dục đại học và thay đổi mối quan hệ bên trong từng CSGDĐH, thông qua việc chính phủ hỗ trợ và cho phép các trường đại học thay đổi hoàn toàn hệ thống cấu trúc và quản trị đại học. Trên cơ sở đó, đại học tự chủ có thể tự quyết và chịu trách nhiệm giải trình về hầu hết các vấn đề liên quan đến sự phát triển của CSGDĐH, không phải xin phép ai ‘cấp phép’ để thực hiện mục tiêu, tầm nhìn, sứ mệnh và các giá trị cốt lõi đã cam kết.
Tự chủ được thể hiện ở hai cấp độ: giữa trường đại học với nhà nước, và trong nội bộ trường đại học. Về mối quan hệ giữa nhà nước và nhà trường, có mấy vấn đề cần làm rõ: Việc Bộ GD&ĐT nhận nhiệm vụ thống nhất thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục đại học là phù hợp với điều kiện của Việt Nam và thông lệ quốc tế; nhưng để tránh việc Bộ GD&ĐT mặc nhiên trở thành ‘Bộ quản lý’ của tất cả các trường đại học với các cung cách quản lý cũ, nhất là sau khi bỏ cơ chế bộ chủ quản, thì việc phân công, phân cấp, phân quyền thế nào giữa Bộ GD&ĐT với các bộ ngành liên quan khác, với địa phương và CSGDĐH, xuất phát từ mục đích quản lý, năng lực điều hành, điều kiện cụ thể của từng bộ ngành, địa phương và của từng CSGDĐH, hướng tới văn hóa chất lượng, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và dịch vụ xã hội rất cần được phân định rõ ràng. Ví dụ như trong các mối quan hệ này CSGDĐH được làm những gì và không được làm những gì, Bộ GD&ĐT cần và phải làm những gì và không được làm những gì; với các bộ ngành liên quan khác và địa phương cũng vậy. 
Tuy vậy, trong Dự thảo hiện nay, mối quan hệ giữa nhà nước (Bộ GD&ĐT, bộ chủ quản và các bộ ngành liên quan) với CSGDĐH chưa được làm rõ. Do vậy, Dự thảo cần bổ sung thêm qui định và hướng dẫn chi tiết. 
Mặt khác, mối quan hệ bên trong CSGDĐH, cụ thể là mối quan hệ giữa cấp ủy đảng, Hội đồng trường và hiệu trưởng chưa được làm rõ. Đây cũng một trong những ‘điểm nghẽn’ được các trường đại học và dư luận xã hội quan tâm thời gian qua.  Do vậy, dự thảo cần làm rõ qui định ‘chủ tịch hội đồng trường không kiêm nhiệm các chức vụ quản lý trong trường đại học” (theo Điểm b Khoản 4 Điều 16 của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật GDĐH), nghĩa là họ không được làm hiệu trưởng, hiệu phó, trưởng các phòng ban, khoa, viện… trực thuộc các trường ĐH? Thực trạng hiện nay ở một số CSGDĐH, chủ tịch Hội đồng trường vẫn đảm nhiệm luôn các chức vụ bí thư đảng ủy, giám đốc đại học; cơ sở khoa học của sự ‘lổn nhổn’ này giữa các CSGDĐH trong cùng một hệ thống GDĐH là gì?
Nếu bí thư cấp ủy kiêm chủ tịch Hội đồng trường và kiêm luôn cả hiệu trưởng sẽ càng khiến quyền lực của hiệu trưởng lớn và dễ dẫn đến tình trạng thiếu dân chủ, thiếu ‘phản biện’, không có sự ‘cân đối quyền lực’ hay giám sát quyền lực nào.

Thúc đẩy nghiên cứu – sức sống của đại học

Trên thế giới người ta phân loại các cơ sở GDĐH thành các loại, hạng khác nhau, nhằm giúp các bên liên quan (nhà nước, tư nhân, các thành phần kinh tế khác nhau…) biết được diện mạo của từng cơ sở GDĐH, từ đó có những ứng xử phù hợp (đầu tư, tuyển dụng, hợp tác…). Các bảng xếp hạng thường dùng các tiêu chí của các trường đẳng cấp cao để ‘đo’ các loại trường, nên các trường muốn có thứ hạng cao khi tham gia xếp hạng thường (thiên về) định hướng nghiên cứu, cái thể hiện rõ nhất và thuyết phục nhất về khả năng đổi mới và sáng tạo của một CSGD. Tuy nhiên, hình như Dự thảo Nghị định chưa rõ ràng giữa tư duy xếp hạng và tư duy phân loại nên dẫn tới còn nhiều ý kiến khác nhau về quy định tại Điều 9.
Cụ thể, Điều 9 vẫn chưa xác định được việc quy định đại học định hướng nghiên cứu để làm gì? vai trò của các trường đại học nghiên cứu trong hệ thống GDĐH như thế nào? Nếu chỉ để cho các bên cùng biết thì đó là phân loại cho tất cả các loại cơ sở GDĐH chứ không phải chỉ đưa ra tiêu chí cho đại học định hướng nghiên cứu. Còn nếu coi các đại học nghiên cứu như lực lượng đầu tàu của hệ thống GDĐH, thì Dự thảo cần nêu rõ nhà nước (sẽ) có cơ chế chính sách khác biệt gì giữa trường đại học định hướng nghiên cứu và trường không/chưa định hướng nghiên cứu để khuyến khích các cơ sở giáo dục chủ động chuẩn bị nguồn lực nhằm đạt tới tiêu chuẩn về đại học định hướng nghiên cứu như Dự thảo Nghị định. 
Dự thảo cũng đặt ra chỉ tiêu về số lượng tiến sỹ được đào tạo theo năm để công nhận trường đại học định hướng nghiên cứu là 20 TS/năm (Điểm b, Khoản 1, Điều 9). Đã đến lúc, không nên dựa vào số lượng đào tạo tiến sỹ để khẳng định đẳng cấp của một CSGD nghiên cứu; điều đó, vô hình trung, chỉ khuyến khích sự hình thành và phát triển thêm các ‘lò ấp’ tiến sỹ. Đẳng cấp một trường đại học nghiên cứu không thể được cân đong đo đếm thuần túy về số lượng, mà phụ thuộc chủ yếu vào năng suất khoa học và chất lượng các công bố KH của CSGD (công bố quốc tế, bằng sáng chế, bản quyền công nghệ, giải pháp hữu ích…). 
Thiết nghĩ, nên qui định theo năng suất khoa học và chất lượng công bố của các CSGD theo giai đoạn 3 hoặc 5 năm liền kề. Tất nhiên, cũng cần có qui định để tránh hiện tượng có CSGD thuê người viết bài đăng báo quốc tế ghi danh CSGD, nhưng trên thực tế, nhà khoa học ấy không hề gắn bó với sự nghiệp đào tạo và nghiên cứu khoa học của CSGD, không góp phần vào việc nâng cao tiềm lực KHCN thực sự của CSGD. 
Nghiên cứu khoa học là ‘thiên chức’, thực sự là/ biểu thị sức sống của của trường đại học. Vì thế, người ta hy vọng Quy định về ‘Hoạt động khoa học và công nghệ trong CSGDĐH’ (Điều 15) sẽ tạo ra một xung lực mới cho nghiên cứu khoa học trong các trường đại học. Ví dụ như việc qui định về xây dựng đội ngũ các nghiên cứu viên (tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, vinh danh,…) trong trường đại học, nhất là các trường ‘định hướng nghiên cứu’. Thậm chí, sau ‘Chương VIII. Giảng viên’, cần có Chương về Nghiên cứu viên. Tiếc là, dường như ban soạn thảo vẫn coi nhiệm vụ dạy của trường đại học là chính, hoạt động KH&CN chưa thực sự được coi trọng.

Thay lời kết 

Thành bại của một quyết sách phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhưng quan trọng nhất có lẽ là VBQPPL phải đủ rõ ràng và tường minh, đủ mạnh mẽ và quyết liệt, tháo đúng nút thắt đang cản bước quá trình phát triển, tập hợp được sự vào cuộc và dấn thân của cả cộng đồng, làm nên sức mạnh cộng hưởng của toàn hệ thống, vì đó chính là khát khao và mong đợi của cộng đồng. Thêm nữa, tổ chức thực hiện để hiện thực hóa các điều luật vào cuộc sống, tạo ra động lực và các bước đột phá trong toàn hệ thống của cơ quan hữu trách, như Bác Hồ đã dạy ‘chủ trương 1 biện pháp 10 quyết tâm 20’, có vai trò quyết định đến sức sống nội tại và sức lan tỏa của VBQPPL ấy. Mong và tin là, Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH sau khi ban hành sẽ làm được điều ấy, tạo ra ‘khoán 10’ trong GDĐH, làm cho GDĐH VN cất cánh! □

Việc biên soạn các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) như Luật, Nghị định ở nước ta xưa này thường có hiện tượng: Luật hay nghị định về lĩnh vực nào, ngành nào thì Quốc hội và Chính phủ giao luôn cho ngành ấy, lĩnh vực ấy soạn thảo, không có bộ phận làm Luật cũng như NĐ chuyên nghiệp, mang tính ‘nhà nghề’, có thể bị chi phối bởi các nhóm lợi ích hay lợi ích cục bộ, của ngành, bộ ấy, cũng như tầm ‘kiến văn’ của ban soạn thảo. Điều đó dẫn đến thực trạng là, giống như một anh tài xế non tay đi trên đường đèo hiểm trở, quẹo phải lo va vào vách núi, quẹo trái lo đâm xuống vực, nên cứ loay hoay chỉnh sửa, thêm bớt, hoặc là chân này chưa nhấn ga thì chân kia đã đạp phanh, nên dù đường đã rõ thì đến đích vẫn chậm, chưa kể nếu đường sương mù nữa thì còn là dò dẫm. Vì vậy, nếu không xin được ý kiến rộng rãi để tiếp nhận các ý kiến của những người có chuyên môn, đang trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực đó, và ban soạn thảo (BST) không có thái độ cầu thị, lắng nghe một cách có trách nhiệm, thì các VBQPPL thường dễ bị méo mó, thiên lệch, được phê chuẩn và có hiệu lực pháp lý nhưng không đi được vào cuộc sống!

Tác giả