Giao quyền tự chủ cho trường ĐH ở Hàn Quốc
Mặc dù có nhiều thành tựu đáng ghi nhận như hiện nay, Hàn Quốc đã có nhiều thập kỷ hạn chế quyền tự chủ của các trường đại học. Cho đến trước thời điểm đổi mới và giao quyền tự chủ toàn diện cho các trường đại học của Hàn Quốc vào năm 1995, chính sách giáo dục đại học của Hàn Quốc được cho là tập trung đến mức cực đoan.
1. Việc thành lập các trường đại học.
2. Đặt ra các quy định về thời lượng chương trình, năm học, chỉ tiêu tuyển sinh, tiêu chuẩn thi cử, chuẩn hoàn thành khóa học, kiểm định chất lượng.
3. Việc bổ nhiệm, khen thưởng hiệu trưởng; đề ra các chuẩn chất lượng giáo viên.
4. Duyệt chỉ tiêu tuyển sinh, và quy định hình thức thi tuyển đầu vào đại học.
5. Xác định chương trình khung, yêu cầu đăng ký tốt nghiệp để kiểm soát số lượng sinh viên.
6. Duyệt chi ngân sách, xác định chuẩn cơ sở vật chất, thư viện, v.v.
7. Quy định trình tự báo cáo của các trường về tài chính, nhân sự, sinh viên lên Bộ Giáo dục1.
Nhìn vào những quy định trên, có thể thấy rõ hình ảnh của mô hình quản lý giáo dục đại học của Việt Nam hiện nay. Và thực tế là chính phủ Hàn Quốc cũng đã loay hoay trong hai thập kỷ 70-80 của thế kỷ trước để tìm ra mô hình cho đổi mới giáo dục đại học. Cụ thể là, trong thời gian này, Hàn Quốc đã có ít nhất là 6 lần thay đổi quy định tuyển sinh đại học: lúc thì Bộ Giáo dục quy định đề chung, lúc thì trường được phép ra đề, lúc thì kết hợp cả hai hình thức tùy theo từng đối tượng. Tuy vậy, đến năm 1995, Hàn Quốc đã chính thức cải cách hoàn toàn cơ chế quản lý xin cho và tập quyền để dứt khoát trao quyền tự chủ cho các trường với những nội dung cơ bản như sau:
1. Đa dạng hóa và chuyên sâu hóa hệ thống giáo dục đại học
2. Đa dạng hóa các tiêu chí cho phép thành lập các trường đại học tư thục
3. Trao quyền tự chủ cho các trường quyết định chỉ tiêu tuyển sinh và quản lý trường
4. Tạo hệ thống hỗ trợ đặc biệt cho nghiên cứu khoa học
5. Gắn kết chặt chẽ giữa đánh giá chất lượng của trường đại học với hỗ trợ tài chính từ Chính phủ1.
Để có được sự dứt khoát đoạn tuyệt với chính sách quản lý cũ, Hàn Quốc đã phải trải qua những dấu mốc cải tổ nào và làm cách nào để Chính phủ Hàn Quốc giám sát chất lượng giáo dục của các trường khi giao toàn quyền tự chủ cho các trường đại học?
Thứ nhất, từ năm 1982, Hiệp hội các trường đại học Hàn Quốc (Korean Council for University Education – KCUE) được thành lập. Hiệp hội này nhằm thúc đẩy nghiên cứu, hợp tác giữa các trường, và đánh giá, kiểm định chất lượng. Cơ quan này đóng vai trò cầu nối giữa Bộ Giáo dục và các trường đại học1. Sau 10 năm thử nghiệm, năm 1992, Hiệp hội chính thức được Chính phủ và Bộ Giáo dục Hàn Quốc công nhận là cơ quan độc lập phi chính phủ, có vai trò chủ chốt trong việc đánh giá, kiểm định các chương trình giáo dục của các trường thành viên.
Thứ hai, sau hai thập kỷ loay hoay với đổi mới giáo dục, năm 1987, cùng với quá trình dân chủ hóa nền chính trị Hàn Quốc, Bộ Giáo dục đã đề ra Kế hoạch Tự chủ hóa các trường đại học (University Autonomization Plan). Thực chất đây là quá trình đổi mới về tư duy phát triển giáo dục đại học bắt nguồn từ việc nhận thức rõ được những bất cập của chính sách quản lý tập trung. Những bất cập đó là: (1) kìm kẹp sáng tạo và đổi mới trong mỗi cơ sở giáo dục; (2) không phù hợp với tình hình mới khi bản sắc của từng trường cần được phát huy; (3) thiếu tính linh hoạt và thích ứng; (4) làm tăng sự quan liêu trong quản lý của các trường, trái ngược với bản chất và chức năng của giáo dục đại học1.
Do đó, bản kế hoạch cải cách năm 1987 thực chất là tăng cường tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong quản lý của các trường; mở rộng sự tham gia của đội ngũ giáo viên trong quản lý của nhà trường; tăng cường chất lượng giáo dục thông qua mở rộng quyền của giáo viên; tăng cường quyền tự quyết của các trường; và bảo vệ và phát huy quyền tự chủ của các trường đại học và cao đẳng2.
Bản đề xuất này đã được hợp thức hóa bằng bản Đề xuất Cải cách của Hội đồng Tổng thống về Cải cách Giáo dục (Presidential Commission on Educational Reform – PCER) công bố ngày 31/05/1995 và được chính thức luật hóa bằng Đạo Luật Giáo dục Đại học năm 1998. Có hai cơ chế nổi bật trong cải cách giáo dục đại học của Hàn Quốc nhằm đảm bảo trách nhiệm xã hội của các trường khi được giao toàn quyền tự chủ. Một là gắn đánh giá chất lương giáo dục (bằng một cơ quan kiểm định độc lập) với hỗ trợ tài chính từ chính phủ; hai là quy định rõ việc thành lập hội đồng trường và điều lệ trường nhằm giám sát hoạt động của các trường.
Qua phân tích quá trình đổi mới giáo dục đại học của Hàn Quốc như trên, có thể rút ra một số điểm mấu chốt liên hệ tới quá trình đổi mới giáo dục đại học của Việt Nam hiện nay.
Một là, quá trình đổi mới thực sự khởi nguồn vào năm 1982 (lúc đó GDP trên đầu người tính theo sức mua tương đương – PPP – của Hàn Quốc là 3.012 USD so với 3.142 USD của Việt Nam năm 2010, IMF)3 từ việc thành lập hiệp hội các trường đại học. Tuy vậy phải mất 10 năm, bằng sự mở đường của quá trình dân chủ hóa diễn ra từ năm 1987 đến năm 1992 tại Hàn Quốc, thì hiệp hội này mới chính thức được công nhận là cơ quan độc lập, giám sát và kiểm định chất lượng của hơn 200 trường thành viên.
Hai là, quá trình đổi mới chính sách xuất phát từ sự đổi mới sâu xa về tư duy: từ việc coi trường đại học là cơ sở do nhà nước sinh ra, và cần chịu sự quản lý của nhà nước đến tư duy coi trường đại học là một thực thể xã hội độc lập, có vai trò nuôi dưỡng sáng tạo khoa học và truyền bá kiến thức. Từ cơ chế xin cho, định hướng đến cơ chế khuyến khích sáng tạo tri thức và phát huy tính đa dạng vốn có của bất kỳ một xã hội nào.
Bài viết này giới thiệu quá trình đổi mới giáo dục đại học của Hàn Quốc như là một thí dụ để Việt Nam nhìn vào và đúc rút những kinh nghiệm, tránh những vết xe đổ, giảm thiểu những chi phí cơ hội để nhanh chóng phát triển khoa học và kỹ thuật, phục vụ phát triển dân trí và kinh tế xã hội. Thực tế, việc đổi mới chính sách phụ thuộc vào lịch sử dân tộc, hệ thống chính trị và điều kiện kinh tế xã hội. Tuy nhiên, đó không phải là cái cớ để xem nhẹ những giá trị toàn cầu, mà đối với giáo dục đại học là tính sáng tạo, sự đa dạng và tự do học thuật, và mục tiêu truyền bá trí thức nhân loại.
Thay cho lời kết, xin mượn lời TS Lâm Quang Thiệp (nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học, Bộ GD&ĐT những năm 1990) và học giả Martin Hayden để nhấn mạnh rằng, cải cách giáo dục đại học Việt Nam cần dựa trên những nền tảng sau: một đạo luật đủ mạnh để khẳng định quyền tự chủ của các trường đại học; một hệ thống các quy định điều tiết mối quan hệ giữa chính phủ và hệ thống giáo dục đại học, sao cho các trường không bị hạn chế quyền tự chủ của mình; minh bạch hóa các quy định về quyền tự chủ và chịu trách nhiệm xã hội, sao cho các cơ quan quản lý, hội đồng trường và hiệu trưởng hiểu rõ quyền và trách nhiệm cụ thể của mình; tăng cường năng lực quản lý của các trường; và xây dựng niềm tin đối với quá trình tự chủ của các trường đại học4.
—
(*) NCS tại trường Đại học Tiểu bang Portland, Hoa Kỳ
1. Weidman, J. C & Park, N. (2000). Higher education in Korea: Tradition and adaptation. Falmer Press: NY
2. Luật Giáo dục Đại học: chưa đủ “chín” để trình Quốc hội. Báo Dân trí, ngày 14/10/2011.
3. Word Economic Outlook Database 2011: Gross domestic product based on purchasing-power-parity (PPP) per capita GDP. Vietnam in 2011 and South Korea in 1982. International Monetary Fund Official Website.
4. Hayden, M & Lam, T. (2007). Institutional autonomy for higher education in Vietnam. Higher Education Research & Development, Vol. 26, No. 1, pp. 73–8