Hợp tác quốc tế trong Giáo dục Đại học giữa Việt Nam và Nhật Bản: Sử dụng công cụ hợp tác trực tuyến cho Giáo dục xuyên biên giới
Tổng quan Từ giữa thập kỷ 80, dưới chính sách cải cách kinh tế được gọi là Đổi mới, Việt Nam đã tích cực khuyến khích đầu tư nước ngoài trong lãnh vực doanh nghiệp ở thị trường tự do. Kết quả là GDP đã tăng gấp đôi trong thập kỷ 90. Khuynh hướng gia tăng hội nhập quốc tế trong kinh tế thị trường đã nhanh chóng thâm nhập vào giáo dục đại học ở Việt Nam. Gần đây, Việt Nam đã đồng ý gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization`s -WTO) và ký kết Hiệp định chung về Thương mại và Dịch vụ (General Agreement in Trading and Service -GATS), một thỏa ước bao gồm việc xem giáo dục là hàng hóa khả mại. Điều này dẫn đến kết quả là nhiều người tin rằng giáo dục Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng của triết lý giáo dục quốc tế và động cơ vì lợi nhuận. (Varghese, 2007). Một lãnh vực mới của giáo dục, như học tập trực tuyến thường rơi vào phạm trù dịch vụ giáo dục xuyên biên giới, có nhiều khả năng sẽ ảnh hưởng mạnh đến giáo dục Việt Nam trong tương lai. Bản báo cáo này xem xét thực trạng hiện tại của giáo dục Việt Nam, những thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt trong lĩnh vực giáo dục đại học; và tìm kiếm một giải pháp thực tiễn nhằm thúc đẩy mối quan hệ hợp tác
Bối cảnh
Việt
Giáo dục đại học Việt Nam
Cải cách kinh tế bắt đầu từ Đổi mới năm 1986 đã khuyến khích đầu tư trực tiếp của nước ngoài (foreign direct investment -FDI) đổ vào Việt Nam và cùng với xu hướng này, giáo dục đại học Việt nam đã mở rộng rất đáng kể trong những năm 90. Ngày nay, tỉ lệ nhập học tổng quát (GER) là khoảng 10 đến 12 phần trăm, và lịch trình cải cách đã đề xuất mở rộng hệ thống này gấp ba đến bốn lần quy mô hiện nay từ nay đến năm 2020. Người ta mong đợi rằng đến năm 2020, sẽ có gần 40% sinh viên học tại các trường tư. (Varghese, 2007).
Việc Việt
Những cơ hội mới cho Giáo dục Đại học Việt
Tuy vẫn có nhiều thử thách không tiên lượng được, việc mở rộng tự do trong các dịch vụ giáo dục cũng sẽ mang tới nhiều cơ hội. Chẳng hạn, việc gia nhập Hiệp định GATS sẽ đưa vào Việt
Công nghệ Thông tin và Truyền thông cho Giáo dục Xuyên Biên giới giữa Việt
Trong việc phát triển giáo dục xuyên biên giới, chương trình đào tạo cần được thiết kế nhằm đáp ứng nhu cầu của sinh viên. Theo nghĩa ấy, việc lựa chọn mục đích, mục tiêu, và triết lý phù hợp với mối quan tâm của cả sinh viên Nhật và Việt là điều quan trọng dẫn tới thành công trong hợp tác quốc tế. Một khả năng hợp tác trong giáo dục xuyên biên giới giữa Việt Nam và Nhật Bản là xây dựng một chương trình khuyến khích 1/ việc tiếp cận internet của sinh viên 2/xóa mù tin học cho sinh viên Việt và Nhật 3/ học tập thể như một hoạt động có tiềm năng dẫn tới những hiểu biết có tính chất toàn cầu và sự khoan dung đối với những khác biệt văn hóa.
Một trường hợp nghiên cứu điển hình do Iinuma et al (2008) thực hiện ở một trường dại học Nhật để tìm một giải pháp thực tiễn nhằm cải tiến chất lượng việc học tập thể và nâng cao hiểu biết quốc tế trong giới giáo dục đại học Nhật. Trong công trình này, một môi trường trực tuyến không đồng bộ, một trang web tập thể dã được dùng để hỗ trợ cả giảng viên và sinh viên. Một nhóm hai mươi sinh viên ở Đại học
Cũng vậy, website hợp tác đã được dùng dể dẩy mạnh giao tiếp giữa giảng viên và lớp học. Một trợ giảng người Việt bên ngoài nước Nhật truy cập vào trang web hợp tác và giao tiếp với những sinh viên đang theo học bằng cách dùng bảng thảo luận trên trang web và email được hệ thống này hỗ trợ. Hình 1, cho thấy trang web hợp tác này dã cho phép tạo các trang web con cho những nhóm nhỏ sinh viên như thế nào.
Hình 1. Trang web tập thể
Công trình nghiên cứu của Iinuma (2008) có thể áp dụng cho giáo dục xuyên biên giới giữa Việt
Hình 2. 3DCG và văn bản có thể tạo sẵn trên trang web tập thể
Những công nghệ mới này có thể thực hiện khá dễ dàng ở các trường đại học Nhật, chi phí rất hiệu quả và dễ sử dụng thậm chí kể cả những người mới tập tành vi tính, và có thể là một công cụ mạnh nhằm nối kết các thành viên xuyên quốc gia ở cấp độ địa phương hóa hơn. Nó cũng có thể hỗ trợ cho những nỗ lực tạo ra các chương trình đào tạo được chia sẻ có thể giúp ích cho cả sinh viên Việt và Nhật. Những công cụ công nghệ được lựa chọn này ngày nay đang bắt đầu được sử dụng chủ yếu trong bối cảnh làm ăn, và biết cách sử dụng những công cụ ấy sẽ có lợi cho sinh viên khi họ tham gia vào thị trường lao động.
Kết luận
Tham gia hiệp định GATS sẽ mang lại cả cơ hội và thử thách cho giáo dục đại học Việt
Phạm Thị Ly dịch
———-
* Khoa Nghiên cứu Truyền thông, Trường Đại học Kỹ thuật Công nghệ
Tư liệu tham khảo
Altbach, P. (2001) Higher education and the WTO: Globalization run amok. The Chronicle of Higher Education.
Iinuma, M. & Chiyokura, H. (2008) Integrating Global Media Contents for EFL Course in
Iinuma、M. & Tran Nu Mai Thy (2007)“Spirit of
McConnell, D. (2005). Examining the dynamics of networked e-Learning groups and communities. Studies in Higher Education. Vol. 30, No. 1, pp.-25-42
Ninomiya, A. (2003). Some WTO/GATS Issues of Free Trade of Higher Education Service.
Robertson,S.L., Bonal, X. & Dale, R.(2002)GATS and the education service industry: the politics of scale and global reterritorialization. Comparative Education Review; 46,4; p.472-496.
Sidhu, R. (2007). GATS and new developmentalism: Governing transnational education. Comparative Education Review. Vol 51. No.2 203-227.
Varghese, N.V. (2007). GATS and higher education: the need for regulatory policies. International Institute for Educational Planning. UNESCO, Paris.
Yepes, C. (2006). World regionalization of higher education: Policy proposal for international organization. Higher Education Policy, 19, 111-128.
Authors
Mizuho Iinuma Ed.D is an Assistant Professor at Tokyo University of Technology, Department of Media Studies. She has earned her doctoral degree from Teachers College,
Tagiru Nakamura, M.A is an instructor at Tokyo University of Technology, Department of Media Studies. He has earned his masters degree at
Tomoki Itamiya, M.A is a doctoral candidate at
Hiroaki Chiyokura, Ph.D is a professor at Tokyo University of Technology, Department of Media Studies. He has earned his doctoral degree from