Một ước vọng giáo dục hiện đại

Bài viết của GS. Alain Fenet về bản báo cáo “Sách giáo khoa như là một ước nguyện hiện đại hóa nền giáo dục của Việt Nam” của nhóm Cánh Buồm.

Các bộ sách giáo khoa chính là phương tiện đầu tiên được nhóm Cánh Buồm dùng cho ví dụ cụ thể trực quan nói trên “nhằm mục đích giải thích cho toàn xã hội hiểu được cơ sở lý luận của nguyên tắc hiện đại hóa giáo dục”.

Trong hoàn cảnh hiện nay, tôi thấy cách tiếp cận này là đúng đắn, bởi vì:

– Các bộ sách giáo khoa của Cánh Buồm sẽ là một công cụ hỗ trợ cụ thể để truyền bá trong xã hội một tư tưởng giáo dục mà nhiều người còn chưa quen;

– Các bộ sách giáo khoa của Cánh buồm sẽ cung cấp cho những giáo viên đang đứng lớp những hiểu biết giúp họ buộc phải thay đổi trước yêu cầu về “một nhà trường hiện đại hóa” và đồng thời giúp họ suy nghĩ về những thành tựu có thật của xu hướng cải cách sư phạm trên thế giới và ở Việt Nam;

– Các bộ sách giáo khoa của Cánh Buồm sẽ là một cách để báo cáo với những người có trách nhiệm của đất nước về công việc hiện nay nhóm đang làm.

Vấn đề giải pháp đổi mới giáo dục bằng giảm tải chương trình học (trang 8)

Giải pháp giảm tải chương trình đang được Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đưa ra chỉ là một cái mẹo tung con chim mồi để nhử. Nhiều nước đã từng thử làm cách này thì đều thất bại. Hoàn toàn có thể gọi đây là một cách làm dễ dãi quan liêu của những con người không có trí tưởng tượng, mặc dù điều này không có nghĩa là không thể đặt ra vấn đề giảm tải chương trình theo một cách thức hợp lý. Nhưng có một điều chắc chắn là không thể giải quyết được khủng hoảng giáo dục bằng cách giảm tải chương trình học. Vấn đề không nằm ở định lượng, mà nằm ở định chất. Định giải quyết khủng hoảng giáo dục bằng giảm tải chương trình học thực ra chỉ là một cách không dám đối mặt với khủng hoảng.

Nhưng có một điều chắc chắn là không thể giải quyết được khủng hoảng giáo dục bằng cách giảm tải chương trình học. Vấn đề không nằm ở định  lượng, mà nằm ở định chất. Định giải quyết khủng hoảng giáo dục bằng giảm tải chương trình học thực ra chỉ là một cách không dám đối mặt với khủng hoảng.

Ước nguyện của Cánh Buồm là hiện đại nền giáo dục bằng những thành quả của khoa học giáo dục đặt trọng tâm vào trẻ em chứ không phải người thầy.  Cách tiếp cận này tự nó đã đòi hỏi phải mang tính khoa học, phải được dựa trên những nghiên cứu tâm lý học, và cụ thể hơn là những nghiên cứu để “tìm ra những thao tác học của người học” (trang 13. Tự đặt mình vào trong khuôn khổ của xu hướng cải cách sư phạm ở cuối thế kỷ 19, Cánh Buồm đặt tên đường lối cải cách của họ bằng khái niệm “công nghệ giáo dục”. Quan niệm này chắc chắn đã được giới chuyên môn thừa nhận, tuy nhiên tôi thấy nó vẫn còn khó hiểu đối với những ai không có chuyên môn, chẳng hạn như bản chất của phương pháp sư phạm của công nghệ giáo dục là tự học, giáo viên hầu như không can thiệp và chỉ đóng vai trò người tổ chức các hoạt động tự học của học sinh, quá trình học phải là quá trình tự do và trách nhiệm.

Vấn đề hiệu lực pháp lý của sách giáo khoa (trang 16)

Quy định tính pháp lý cho sách giáo khoa tức là trao cho sách giáo khoa của Nhà nước một tính chất ràng buộc pháp lý, điều này bắt nguồn từ một tầm nhìn độc đoán về vai trò của Nhà nước trong hệ thống giáo dục. Quy định này có thể hiểu được vì nhiều lý do khác nhau khi mà đất nước ở trong thời kỳ mới bắt đầu xây dựng một nền giáo dục công lập, song nó hoàn toàn không đáp ứng được những yêu cầu của các xã hội hiện đại ở thế kỷ 21. Sách giáo khoa dùng trong nhà trường chỉ có thể đáp ứng được yêu cầu của xã hội ở thế kỷ 21 bằng cách Nhà nước cho phép sự đa dạng hóa hoạt động sư phạm, cho phép sự sáng tạo của các tác giả làm sách giáo khoa, cho phép quyền tự do của người thầy trong lớp học, cho phép sự đa dạng của trẻ em.

Để bù lại, Nhà nước hoàn toàn có lý do chính đáng khi muốn áp đặt một chương trình học khung dành cho các trường công lập, chương trình đó có thể được xây dựng dựa trên sự đóng góp của nhiều bộ sách giáo khoa khác nhau cung cấp cho người giáo viên.

Sách giáo khoa do Cánh Buồm biên soạn là “kết quả người dạy và người học cùng làm ra trong tiết học” (trang 19)

Quan niệm này nằm trong những nguyên tắc và mục tiêu của các nhà sư phạm hiện đại được nhóm Cánh Buồm tiếp thu. Theo tôi hiểu thì điều được rút ra có liên quan rõ rệt hơn tới hai vấn đề: sự tham gia của người dạy và việc xây dựng chương trình học.

Phương pháp của Cánh Buồm đòi hỏi rất nhiều sự tham gia của người dạy. Phương pháp này đòi hỏi người dạy phải có sự tập trung, linh hoạt, sáng tạo; người dạy không được phép làm việc theo thói quen xói mòn; người dạy phải có sức chịu đựng lớn. Người dạy phải hiểu được quan niệm rằng dạy học không phải là một nghề như bao nghề khác mà dạy học là một sứ mệnh thiêng liêng.

Chủ trương sư phạm và sách giáo khoa của nhóm Cánh Buồm liệu có cho phép xây dựng được một chương trình học chính thức? Phương pháp sư phạm và sách giáo khoa của Cánh Buồm liệu có đảm bảo sự cân bằng giữa học để có những năng lực và học để có kiến thức ? Những người có trách nhiệm trong ngành giáo dục có thể có lý do chính đáng để đặt câu hỏi này. Để trả lời câu hỏi này một cách thỏa đáng thì dĩ nhiên phải thông qua một cơ chế kiểm chứng cụ thể.

Nhìn vào các bộ sách giáo khoa của nhiều môn học của Cánh Buồm thì có thể thấy nhóm Cánh Buồm đã có sự sáng tạo và tuân thủ phương pháp nghiêm ngặt. Những lý luận liên quan và những khó khăn trở ngại cụ thể phải được nêu tùy theo tình hình cụ thể diễn ra.

Môn học “Lối sống”

Cần nêu bật công lao của nhóm Cánh Buồm đối với môn học này. Nhà trường cổ truyền, và ngay cả nhà trường của ngày hôm nay nữa, hầu như cố tình né tránh môn học này. Dạy lối sống tức là dạy cho trẻ em trưởng thành như là những cá nhân tự chủ và có trách nhiệm để chúng biết cách sống hòa hợp trong thế giới hiện đại. Dường như trong đầu tôi bỗng nảy ra suy nghĩ trùng hợp với quan niệm mà Cánh Buồm muốn nhấn mạnh ấy là sự lúng túng của trẻ em khi bắt đầu đến trường (trang 55): lúng túng trước rất nhiều những khuôn mẫu khác nhau và mâu thuẫn với nhau trong thế giới của người lớn, lúng túng trước khoảng cách vênh nhau giữa [một bên là] những chuẩn mực đạo đức hay chuẩn mực công dân và [một bên là] những cách ứng xử thực tế mà chúng chứng kiến hằng ngày. Giáo dục trẻ em tức là cho phép trẻ em xác định được bản thân mình dựa trên nền tảng của những giá trị phổ quát.

Tôi muốn nêu một điểm nữa, nó không được đề cập trực tiếp trong bản báo cáo: vai trò quan trọng của người thầy dạy giỏi đối với sự phát triển của trẻ em. Ai trong chúng ta cũng đều có kỷ niệm về một người thầy nào đó để lại dấu ấn đặc biệt, được ngưỡng mộ, thậm chí được yêu. Chẳng phải chúng ta vẫn hay hỏi trẻ em là “các em có yêu thầy cô không”? Có sinh viên nào, có học trò nào lại chẳng trải qua sự mong muốn làm vui lòng thầy cô của chúng cơ chứ?

Vấn đề “đào tạo sư phạm” được trình bày trong bản báo cáo (trang 33) không cho biết về những điểm được nêu ở trên.

Phạm Anh Tuấn dịch

Tác giả