Nếu xếp hạng là một căn bệnh, đối sánh có phải là thuốc chữa? (Kỳ 1)
Mối bận tâm về xếp hạng đại học phản ánh sự thừa nhận nói chung về việc mức tăng trưởng kinh tế và năng lực cạnh tranh toàn cầu đang ngày càng bị chi phối bởi kiến thức và các trường có một vai trò trọng yếu trong bối cảnh ấy. Thực tế là, các trường ĐH có một vai trò cốt lõi trong việc hỗ trợ cho chiến lược tăng trưởng kinh tế tri thức và xây dựng xã hội dân chủ cũng như sự cố kết xã hội. Bằng cách tạo ra một lực lượng lao động kỹ năng cao, có năng suất tốt và linh hoạt, bằng cách sáng tạo, ứng dụng và phổ biến tri thức mới, công nghệ mới, các trường ĐH đang giúp cho đất nước họ tăng cường năng lực cạnh tranh toàn cầu.  
Tuy vậy, những nỗ lực thử nghiệm đo lường và phân tích điều gì mang lại hiệu quả ở các trường đã và đang nhấn mạnh đến hoạt động của từng trường, chẳng hạn như mức độ cạnh tranh đầu vào, thành quả nghiên cứu, khả năng kiếm được việc làm của sinh viên tốt nghiệp, v.v. Các bảng xếp hạng quốc tế nhấn mạnh tới vị trí tương đối giữa các nước, dùng vị trí của những trường hàng đầu của mình như là một biểu tượng cho chất lượng hoạt động của cả hệ thống. Tuy nhiên, dù là các bảng xếp hạng có thể đem lại một số thông tin về từng trường trong tương quan so sánh với các trường khác, nó đã không đem lại đủ công cụ để đo lường mạnh yếu của một hệ thống GDĐH như một tổng thể. Bởi vậy, bài này sẽ bàn về mức độ thích hợp của các bảng xếp hạng với tư cách là một thước đo cho hệ thống GDĐH của các nước. Sau khi trình bày về cách sử dụng và sự lạm dụng các bảng xếp hạng, bài viết sẽ giải thích sự khác nhau về mặt phương pháp giữa xếp hạng và đối sánh. Cuối cùng, bài viết sẽ trình bày công cụ đối sánh đang được xây dựng của Ngân hàng Thế giới.
Cách sử dụng và sự lạm dụng các bảng xếp hạng
Có nhiều vô số các bảng xếp hạng ra đời những năm gần đây, có thể kể chẳng hạn như Bảng Xếp hạng ĐH toàn cầu của trường ĐH Giao Thông Thượng Hải, thường gọi Academic Ranking of World Universities (ARWU); bảng xếp hạng của Thời báo Times Higher Education’s Ranking, thường gọi THE; bảng xếp hạng The Web of World Universities Ranking, thường gọi Webometrics; hoặc CHE, hay U.S. News & World Report, chưa kể rất nhiều bảng xếp hạng ngành quản trị kinh doanh. Các bảng xếp hạng này do nhiều tổ chức khác nhau thực hiện, từ chính phủ các nước đến các tổ chức độc lập và các đơn vị báo chí truyền thông. Hình 1 cho thấy sự phân bố các bảng xếp hạng, tính đến 2010.
Đi cùng với sự nảy nở tràn lan của các bảng xếp hạng là những phản ứng mãnh liệt đủ loại, từ phản đối việc xếp hạng ngay từ những nguyên tắc cơ bản nhất, đến phê phán phương pháp xếp hạng, tẩy chay, áp lực chính trị, và thậm chí có cả hành động của tòa án nhằm chấm dứt việc công bố các bảng xếp hạng.
Sự mở rộng danh sách các trường tinh hoa và việc thực thi công việc xếp hạng không tránh khỏi sự chú ý của nhiều bên liên quan khác nhau, và phản ứng mà họ khơi ra hiếm khi tốt lành. Những bảng xếp hạng này thường bị bài bác bởi nhiều nhà phê bình do những thiếu sót sai lầm nguy hiểm trong việc thu thập dữ liệu. Nó bị tẩy chay bởi một số trường không hài lòng với kết quả xếp hạng của họ, và bị các chính khách đối lập sử dụng như một cách thuận tiện để phê phán chính phủ (Salmi and Saroyan, 2007: 80).
Kiểu phản ứng như thế không phải là không có lý do xác đáng. Kết quả xếp hạng và/hoặc sự khao khát được nâng hạng có thể bổ sung thêm những động lực khích lệ trái chiều với quá trình ra quyết định của nhà trường. Ví dụ, một trường ĐH thiết tha muốn nâng hạng có thể sẽ điều chỉnh chính sách tuyển sinh của mình theo hướng ưu tiên cho sinh viên giỏi, dù sẽ phải thỏa hiệp với những nguyên tắc về công bằng, bình đẳng và bảo đảm sự đa dạng trong sinh viên, qua đó họ làm tăng điểm đầu vào và tạo ra ấn tượng họ là trường có chất lượng. Hay là, ở cực ngược lại, các trường có thể khuyến khích sinh viên nói dối nhằm tăng tỉ lệ sinh viên hài lòng với nhà trường trong các khảo sát ý kiến, vì những kết quả này góp phần tăng điểm của trường, như đã xảy ra ở Kingston University ở United Kingdom đầu những năm 2000.
Như Malcolm Gladwell (2011: 70) đã nêu ra, ngay cả những bảng xếp hạng được biết đến rộng rãi như U.S. News & World Report cũng có nhiều sai lầm thiếu sót bởi nó không đồng nhất. Ví dụ, nó không so sánh chỉ các trường công cùng quy mô mà đi so sánh cả các trường tư có xu hướng nhỏ hơn nhiều, có tính chất chuyên ngành hơn và có mức thu lớn hơn trên mỗi sinh viên.
The U.S. News and World Report đưa vào bảng so sánh của họ không chỉ những trường như U.C. Irvine, the University of Washington, the University of Texas-Austin, the University of Wisconsin-Madison, Penn State, và University of Illinois, Urbana-Champaign – những trường công có cùng quy mô. Họ còn nhằm vào so sánh cả Penn State – một trường công cực lớn, được nhà nước cấp đất, học phí thấp, sinh viên đủ loại giàu nghèo khác nhau, đặt trụ sở ở một thung lũng nông thôn ngay trung tâm bang Pennsylvania… với Yeshiva University, một trường tư Do Thái giáo nhỏ và học phí cao, cơ sở đào tạo bậc cử nhân đặt tại hai địa điểm ở Manhattan, một nằm ngay tại khu trung tâm cho nữ, và một ở ngoại ô cho nam).
Bởi có nhiều thứ đe dọa vị trí xếp hạng tích cực của các trường trong một nước trên một bảng xếp hạng ĐH toàn cầu, không có gì đáng ngạc nhiên khi chính phủ một số nước đã đáp ứng bằng cách khuyến khích chuẩn bị một bảng xếp hạng khác, khi họ không hài lòng với vị trí hiện tại của các trường trên các bảng xếp hạng ĐH đang có hiện nay. Ví dụ, một bảng xếp hạng ĐH toàn cầu mới ra đời ở Nga, được RatER, một tổ chức xếp hạng của Nga, soạn thảo công phu, đã đặt Trường ĐH Quốc gia Moscov trên cả những trường như Harvard, Stanford và Cambridge, là những trường hàng đầu trong bảng xếp hạng Thượng Hải và Times Higher Education (Smolentseva, 2010). Trong nhiệm kỳ của tổng thống Pháp trong Liên hiệp Châu Âu, một thành tích của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục là thuyết phục được Hội đồng Châu Âu khởi động một bảng xếp hạng mới cho Châu Âu, nhằm có được sự “khách quan hơn và ưu ái hơn với các trường ĐH của Châu Âu1.
Tuy rằng có nhiều ý kiến trái ngược quanh vấn đề xếp hạng, có nhiều lý do vững chắc khiến nó vẫn sống khỏe. Đó là những ích lợi về mặt thông tin cung cấp cho sinh viên, những người đang cần phải quyết định lựa chọn sẽ theo học trường nào, trong nước hay ngoài nước. Hệ quả là, các bảng xếp hạng và thông tin về mức độ gắn bó của sinh viên, kết quả của nhà trường trên thị trường lao động thành ra có giá trị. Hơn thế nữa, các bảng xếp hạng thúc đẩy văn hóa minh bạch, khích lệ các trường thu thập thông tin và công bố những dữ liệu đáng tin cậy hơn. Cuối cùng, các bảng xếp hạng thúc đẩy việc xác lập những mục tiêu dài hạn cho các trường. Bằng cách theo đuổi mục tiêu nâng hạng, các trường có thể nảy sinh nhu cầu phân tích các yếu tố chính giúp đạt thứ hạng cao, tìm cách cải thiện hoạt động dạy, học và nghiên cứu, đề xuất các mục tiêu cụ thể để hướng dẫn (nhưng không thay thế) kế hoạch chiến lược, và bước vào những quan hệ đối tác thuận lợi.
Từ xếp hạng tới đối sánh
Kết quả xếp hạng giúp sinh viên, gia đình họ và các nhà tuyển dụng thấy được kết quả của từng trường riêng lẻ; tuy nhiên, không nói lên điều gì đáng kể về chất lượng hoạt động tổng thể của hệ thống GDDĐH một nước. Chẳng hạn, các bảng xếp hạng không đo lường kết quả của một hệ thống về mặt đem lại cơ hội bình đẳng trong việc tiếp cận giáo dục, về chất lượng và tính thiết yếu cho xã hội, về sự phân tầng hệ thống (hay nói cách khác, sự đa dạng về sứ mạng của các trường – ND), và những đóng góp cho sự phát triển xã hội và kinh tế địa phương thông qua đào tạo một nguồn vốn con người có kỹ năng cao và tạo ra các sáng chế. Theo các bảng xếp hạng toàn cầu, những trường tốt nhất trên thế giới chủ yếu nằm ở Hoa Kỳ, như trong Hình 2, phân tích 50 trường hàng đầu trong hai bảng xếp hạng THE và ARWU. Trong THE, 40% là các trường Hoa Kỳ, còn trong ARWU, 70% trong 50 trường tốt nhất là các trường nằm tại Hoa Kỳ.
Hình 2. Biểu đồ phân phối các trường top 50, 2010
Thật đáng ngạc nhiên, Nhật Bản là quốc gia châu Á duy nhất có mặt trong bảng xếp hạng ARWU, trong khi 6 trường ĐH Châu Á khác bên cạnh Nhật Bản lại có mặt trong bảng xếp hạng THE, và những nước hay vùng lãnh thổ này, vốn được gọi là “con cọp châu Á” (Hong Kong, Singapore, South Korea, Taiwan) thường được xem là những nền kinh tế năng động bậc nhất trên thế giới. Thêm nữa, nếu tính số trường “đẳng cấp thế giới” trong tương quan với dân số của quốc gia, sẽ thấy rằng một số nền kinh tế năng động đang đạt được những kết quả rất tốt dù họ không có nhiều trường trong top 500 trên thế giới, như Bảng 1 dưới đây. Bảng này cũng cho thấy một số nước có hiệu quả hơn so với nước khác trong việc tạo ra những trường lọt top 500. Ví dụ, Phần Lan, New Zealand và Thụy Điển có số trường được lọt vào bảng xếp hạng tính bình quân trên số dân cao hơn so với các nước khác.
Tương tự, các bảng xếp hạng rất ít lưu ý đến hiệu quả của hệ thống GDĐH các nước trong việc phục vụ xã hội như một bậc thang giúp thoát khỏi đói nghèo. Như ta thấy trong Hình 3 dưới đây, những nước như Hoa Kỳ và UK, vốn có số trường được xếp hạng hàng đầu vào loại cao nhất, lại là những nước chẳng đạt được thành tích đáng kể xét về mặt tạo ra dịch chuyển trong thang bậc xã hội.
Bởi vậy, một khuôn khổ khách quan giúp đo lường những ảnh hưởng và tính hiệu quả của hệ thống GDĐH các nước trong việc tăng cường bình đẳng, cơ hội tiếp cận, chất lượng, tính thiết yếu cho xã hội, và khả năng thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội ở địa phương, là điều chúng ta rất cần phải có. Tuy xếp hạng ít nhiều cũng có ích trong việc so sánh các trường với nhau, nó đánh mất một điểm quan trọng là đánh giá mức độ thành công của cả một hệ thống đối với việc đạt được những mục tiêu mà nó có nhiệm vụ phải đạt.
Đối sánh các hệ thống GDĐH
Không có sự đồng thuận về vấn đề các nước cần phải làm gì để cải thiện kết quả hoạt động, và có nhiều khác biệt lớn giữa chất lượng hoạt động của các hệ thống khác nhau, dù với cùng mức độ tài chính và cùng chia sẻ chung một số đặc điểm quốc gia. Đối sánh cho phép chúng ta so sánh các hệ thống GDĐH các nước ở những giai đoạn phát triển tương tự nhau, ở những khu vực gần nhau trên thế giới, hay có cùng bối cảnh chính trị. Đối sánh là quá trình so sánh hoạt động của một nền GDĐH với một nền GDĐH khác, giúp ta xác định đối thủ cạnh tranh và học hỏi từ kinh nghiệm thực tiễn của người khác.
Không như việc xếp hạng về bản chất là dẫn tới cuộc đua lên đỉnh, đối sánh mang lại một thái độ học hỏi bình thản. Mục đích của đối sánh là cải thiện hoạt động nhờ vào việc “chẩn bệnh” (tìm ra những lĩnh vực cần cải thiện, thông qua đối chiếu với những trường khác hay hệ thống khác); và xác định những biện pháp can thiệp cụ thể để khích lệ nền GDĐH các nước đạt được những kết quả mà họ có tiềm năng để đạt đến. Để đạt được mục tiêu ấy, người ta phải hiểu những nhân tố nào quyết định chất lượng hoạt động. Ma trận dưới đây tóm tắt những khác biệt chính giữa xếp hạng và đối sánh trong việc đánh giá kết quả hoạt động trong GDĐH (Bảng 2)
Bảng 2. So sánh xếp hạng và đối sánh
Đặc điểm |
Xếp hạng |
Đối sánh |
Đơn vị phân tích |
Trường ĐH/ngành |
Cơ sở đào tạo sau trung học hoặc hệ thống GD sau trung học |
Mục đích thực hiện |
Xếp hạng cao thấp/ cạnh tranh về uy tín |
So sánh để xác định điểm mạnh yếu nhằm mục tiêu cải thiện |
Mức độ toàn diện |
Tập trung vào nghiên cứu và mức độ quốc tế hóa |
Xem xét tất cả sứ mạng của các trường (đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, gắn bó với khu vực) |
Dễ sử dụng |
Một con số tóm tắt toàn bộ kết quả |
Cần xem xét nhiều tiêu chí |
Các yếu tố được xem xét |
Giới hạn trong các tiêu chí do tổ chức xếp hạng áp đặt |
Phân tích định lượng và định tính một cách có hệ thống về dữ liệu, các tiêu chí và các bản báo cáo |
Lựa chọn đối tượng để so sánh |
Do tổ chức xếp hạng áp đặt |
Được một nhóm chuyên gia chọn |
Trọng số các tiêu chí |
Tầm quan trọng của mỗi nhân tố (trong tương quan với các nhân tố khác) được các tổ chức xếp hạng quyết định |
Tầm quan trọng của mỗi nhân tố (trong tương quan với các nhân tố khác) được nhóm chuyên gia đối sánh quyết định |
Sự minh bạch |
Dựa vào những dữ liệu được công bố và có thể kiểm chứng cũng như khảo sát về uy tín |
Dựa vào những dữ liệu được công bố và có thể kiểm chứng |
Tính khách quan |
Bị đe dọa bởi khảo sát về uy tín mang tính chủ quan và bởi trọng số có tính chất tùy tiện |
Gắn với việc lựa chọn các tiêu chí |
Người sử dụng |
Công chúng |
Phân tích theo nhu cầu của từng trường hoặc của chính phủ |
Sự tham gia của chủ thể |
Nhiều khả năng chủ thể chọn cách không trực tiếp tham gia |
Chủ thể chủ động quyết định tham gia vào quá trình |
(Nguồn: Tác giả)
Để chỉ ra một ví dụ về đối sánh trong hành động, ta có thể so sánh kết quả hoạt động của Chi lê và Brazil. Nếu mục đích là có số người vào ĐH cao nhất có thể, thì Chile có thể được xem là hiệu quả hơn so với Brazil bởi họ sử dụng ít nguồn lực hơn để đạt được cùng một mục tiêu. Như minh họa trong Hình 4, Chile sử dụng 0,3% GDP và có tỉ lệ 38% vào ĐH, trong lúc Brazil tiêu tốn 0,9 % và có 24% người vào ĐH. Điều này đặt ra câu hỏi: tại sao Chile có hiệu quả hơn và Brazil có thể học gì từ ví dụ của Chile.
Bởi thế, có một sự khác biệt rõ giữa mức độ một nước đầu tư cho hệ thống GDĐH của họ và kết quả họ đạt được. Trong việc xây dựng chi tiết một khuôn khổ lý luận cho các chương trình đối sánh, sự khác biệt này được khái niệm hóa thành kết quả hoạt động và sự lành mạnh của một hệ thống GDĐH. Những yếu tố nào có thể giúp dự đoán hiệu quả của một hệ thống và dưới những điều kiện nào thì một hệ thống có thể hoạt động với kết quả cao?
Một đặc điểm trọng yếu trong công cụ đối sánh mà Ngân hàng Thế giới đề xuất là nó được xây dựng chung quanh sự phân biệt có tính chất cơ bản giữa kết quả hoạt động của một hệ thống GDĐH và những động lực có tác động đến việc tạo ra kết quả ấy, nhằm trả lời hai câu hỏi:
1. Hệ thống GD sau trung học của một nước trong thực tế hiện tại đã tạo ra những kết quả mà người ta mong đợi nó phải đạt được như thế nào? Nói cách khác, có thể đánh giá như thế nào về chất lượng hoạt động hiện tại của cả hệ thống?
2. Các yếu tố đầu vào chính yếu, đặc điểm của bản thân quá trình và các nhân tố thúc đẩy của một hệ thống GDĐH đã phản ánh ở mức độ nào những điều kiện được biết là sẽ giúp mang lại một kết quả đáng mong muốn?
Hơn thế nữa, công cụ đối sánh cho phép người dùng có thể đánh giá được diễn tiến hoặc tốc độ thay đổi của chất lượng hoạt động và những tiêu chí khác về sự lành mạnh của hệ thống (Còn tiếp).
Phạm Thị Lý dịch
Nguồn: Bản tin của Viện Đào tạo Quốc tế, ĐH Quốc gia TPHCM
——————————————-
Chú thích:
1. Nguồn: Tuyên bố của Bộ trưởng Valérie Pécresse’s tại Hội thảo So sánh Quốc tế trong Giáo dục tổ chức tại Paris, tháng 12 năm 2008.