Hoàng Vạn Lý- người chỉ biết nói thật

Nếu các nhà khoa học thủy lợi Trung Quốc (TQ) những năm 1950 dám nói lên sự thật như Hoàng Vạn Lý, chuyên gia thủy lợi, thủy văn hàng đầu của TQ, dù điều đó trái với ý kiến của lãnh đạo cao nhất thì chắc chắn nhân dân hai bờ Hoàng Hà (HH) sẽ không phải điêu đứng, khổ sở vì hồ nước Tam Môn Hiệp (TMH) suốt hơn nửa thế kỷ qua (và không biết bao giờ mới hết).


Thất bại lớn nhất trong lịch sử xây dựng của Trung Quốc
Năm 1952, Chính phủ TQ mời Liên Xô giúp lập dự án trị thủy HH, con sông thường xuyên gây nạn lụt lớn trong lịch sử TQ. Tháng 10/1954, dưới sự chỉ đạo của đoàn chuyên gia Liên Xô, Ủy ban Quy hoạch HH (do Bộ Thủy lợi và Bộ Công nghiệp Nhiên liệu TQ là lực lượng chính) hoàn thành bản: “Quy hoạch lợi dụng tổng hợp Hoàng Hà”. Đây là một công trình quy mô vĩ đại: trên dòng chính của sông HH sẽ xây dựng 46 đập nước lớn (trong đó, đập TMH là lớn nhất): tổng công suất máy phát điện của các đập này là 23 triệu KW, bình quân hàng năm sản xuất 110 tỷ KWH, gấp 10 lần sản lượng điện toàn TQ năm 1954; diện tích đất được tưới nước sẽ từ 16,59 triệu mẫu TQ tăng lên 116 triệu mẫu; xà lan 500 tấn có thể chạy từ biển Đông vào đến tận Lan Châu.
Tháng 9/1960, hồ chứa nước TMH hoàn thành. Từ năm thứ hai, 800 nghìn mẫu ruộng lúa hai bờ sông đều bị ngập, phải di dời cả một huyện; thành phố Tây An bị đe dọa nghiêm trọng. Từ năm 1972, HH bắt đầu đứt dòng chảy, kể từ năm 1990, hàng năm bình quân HH có hơn 100 ngày không có nước. Hàng trăm nghìn nông dân TQ phải  bỏ ruộng đất mầu mỡ ở quê hương để dời đến các vùng đất cằn cỗi ở vùng sâu, vùng xa, một số người phải di dời nhiều lần mất sạch cơ nghiệp. Ngày nay, sau gần 50 năm, thủy thổ lưu vực HH ngày càng tồi tệ, nước sông phía hạ lưu hầu như chẳng còn lại bao nhiêu. Theo Nhân dân Nhật báo ngày 16/2/2006: năm 2005 dân quanh hồ phải dời nhà hai lần do nước dâng lên vào mùa mưa; 9 trong 10 năm qua bị hạn hán; thu nhập bình quân năm 2004 của nhân dân vùng hai bờ sông phía thượng lưu là 1172 Yuan (kém 1164 Yuan so với mức trung bình cả nước); 297 nghìn dân thuộc diện nghèo, trong đó 114 nghìn nghèo tuyệt đối; nhiều hộ tài sản cộng lại chưa quá 200 Yuan (24USD). Tóm lại nông dân bị thiệt hại quá nhiều từ công trình thủy điện, thủy lợi này. Khi đoàn cán bộ cấp cao của Chính phủ đến nơi quan sát, các vị này ai cũng khóc và nói nhà nước thật có lỗi với nông dân.

 

Kỹ sư thủy lợi Vương Duy Lạc định cư ở Đức trong bài viết “Kỷ niệm 40 năm xây dựng xong công trình Tam Môn Hiệp” cho biết, chi phí công trình này tương đương giá thành làm 40 cây cầu Trường Giang Vũ Hán; các phí tổn cải tạo sau đó và thiệt hại kinh tế do công trình này gây ra cho các vùng chịu tai họa lớn tới mức không thể nào tính nổi. Theo Nhân dân Nhật báo ngày 16/2/2006, điều tra của Trường Đảng Trung ương TQ cho biết, vốn đầu tư cho 13 nhà máy thủy điện (công suất phát điện 11,72 triệu KW) trên HH hết 50 tỷ Yuan (6 tỷ USD).
Đáng lẽ nhân dân và Nhà nước TQ sẽ không phải gánh chịu hậu quả trên nếu biết lắng nghe và tiếp thu ý kiến của nhà khoa học Hoàng Vạn Lý- một chuyên gia thủy lợi, thuỷ văn có ảnh hưởng lớn nhất ở TQ, giáo sư trường đại học Thanh Hoa (Ông là con trai cụ Hoàng Viêm Bồi, nhà giáo dục và nhân sĩ dân chủ yêu nước nổi tiếng trong lịch sử TQ). Dĩ nhiên, khi nhà nước đặt vấn đề xây dựng công trình thủy lợi TMH, ông là người đầu tiên được tham gia.
Ngay từ đầu, Hoàng Vạn Lý đã phát biểu: Liên Xô có nhiều kinh nghiệm xây dựng thủy điện, nhưng họ chưa hiểu vấn đề của HH. Khác hẳn các con sông ở Liên Xô, sông HH có rất nhiều phù sa và chính điều đó sẽ là nguồn gốc gây tai họa sau này. Thế nhưng hồi ấy từ chuyên gia cho đến các nhà lãnh đạo Đảng, Chính phủ TQ, ai nấy đều nghe theo ý kiến của chuyên gia Liên Xô (mặc dù đoàn chuyên gia này gồm toàn chuyên gia công trình thủy chứ không phải thủy lợi). Lãnh đạo nhà nước lại càng đồng tâm nhất trí với giấc mơ “Thánh nhân xuất, Hoàng Hà thanh”(thánh nhân xuất hiện, sông Hoàng sạch trong). Trong không khí cực đoan một chiều như thế, các chuyên gia có trách nhiệm chính của công trình đều không dám kiên trì quan điểm của mình, cá biệt còn có người xuyên tạc sự thật, a dua vào hùa để thừa dịp thăng tiến. Họ hết lời ca ngợi bản quy hoạch của đoàn chuyên gia Liên Xô, Hoàng Vạn Lý là người duy nhất dám công khai phản đối công trình này. Ông nói: “Các vị đều nói Thánh nhân xuất, Hoàng Hà thanh. Tôi bảo: Hoàng Hà không thể thanh được. Hoàng Hà thanh không phải là công mà là tội”.

 

Ngày 10/6/1957, hội nghị bàn về Khu đầu mối thủy lợi TMH họp tại Bắc Kinh; lúc ấy công trình này đã bắt đầu chuẩn bị xây dựng. Trong hội nghị đã diễn ra cuộc tranh luận gay gắt giữa những người đồng tình với thiết kế của Liên Xô và Hoàng Vạn Lý. Phái đồng tình vẽ nên bức tranh hoành tráng: xây đập cao, ngăn nước lũ, tích cát lại, làm cho nước chảy từ hồ ra sẽ là nước trong không có phù sa. Riêng Hoàng Vạn Lý nói: nếu đắp đập trên đoạn sông có trầm tích thì nạn lụt ở hạ lưu HH sẽ chuyển dịch đến đoạn trung lưu ở đồng bằng Quan Trung. Ông cho rằng phù sa trong nước sông có tác dụng tự nhiên chia cắt thượng lưu, tạo lục địa hạ lưu. Xây đập ngăn sông làm “trong” nước HH là đi ngược quy luật thiên nhiên, là không hiện thực, huống hồ nước trong ra khỏi hồ chứa là không có lợi cho lòng sông phía hạ lưu. Ông nói: sau khi đắp đập thì sẽ ngập ruộng, gây ra thiệt hại cho các thành phố gần hồ.
Đa số các chuyên gia dự họp đều đồng ý với thiết kế của chuyên gia Liên Xô, Cuộc tranh cãi kéo dài bảy ngày đa số các chuyên gia dự họp đều đồng ý với thiết kế của chuyên gia Liên Xô. Giáo sư Hoàng Vạn Lý đành đề xuất: nếu nhất định phải đắp đập thì  chớ nên bịt kín sáu hầm thoát nước để sau này có thể đặt cống xả cát. Quan điểm này được toàn thể hội nghị thông qua. Nhưng khi thi công, các chuyên gia Liên Xô giữ nguyên thiết kế cũ bịt kín cả sáu cống ngầm. Thập kỷ 70, TQ phải bỏ ra 10 triệu Yuan (1,2 triệu USD) để mở lại các cống này.

Chỉ vì nói thật mà 22 năm bị chụp mũ “phái hữu”
Lẽ ra sự bất đồng với ý kiến của chuyên gia Liên Xô chỉ là một vấn đề kỹ thuật, thế nhưng trong tình hình ngày ấy lại bị coi là một vấn đề chính trị lớn. Ngoài ra, trong phong trào “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”, Hoàng Vạn Lý

 

có viết một bài báo trên tạp chí của trường Đại học Thanh Hoa, đề xuất sự cần thiết mở rộng dân chủ để nhân dân giám sát và góp ý cho các quyết sách của nhà nước nhân việc xác định phương án thiết kế đập TMH. Sau khi đọc bài này, Mao Trạch Đông tức giận  nói với cụ Hoàng Viêm Bồi: Nhà cụ thế là cũng chia ra làm ba phái tả, trung, hữu rồi đấy… Bài báo của Hoàng Vạn Lý viết gì (mà bậy bạ) thế! Tiếp đó “Nhân dân Nhật báo” đăng bài phê phán Hoàng Vạn Lý, bắt đầu 22 năm đầy ải cực khổ của nhà khoa học. Năm 1958, Hoàng Vạn Lý chính thức bị quy là phần tử “phái hữu”, tiền lương bị giảm từ giáo sư bậc hai xuống giáo sư bậc bốn. Dù bị trù dập như thế, ông vẫn không nói câu nào tỏ ra… “hối cải”. Sau này, khi các tai họa của công trình TMH đã lộ rõ, lãnh đạo Chính phủ TQ nói qua cụ Hoàng Viêm Bồi gợi ý cho Hoàng Vạn Lý biết, nếu ông chịu làm kiểm thảo thì sẽ tháo mũ “phái hữu” cho ông. Hoàng Vạn Lý chẳng những không viết kiểm điểm mà còn căn vặn lãnh đạo: “Nhà nước nuôi trí thức bao lâu nay là để làm gì?”.
Có người nói: nếu Hoàng Vạn Lý chịu nghe lời lãnh đạo thì có lẽ cuộc đời ông đã khác hẳn. Năm 1935, ông tốt nghiệp thạc sĩ khoa thủy văn ở Mỹ, năm 1937 là người TQ đầu tiên nhận bằng tiến sĩ xây dựng trường đại học Illinois, sau đó thực tập tại công trình Tennessee. Năm 26 tuổi, ông về nước, làm kỹ sư thủy lợi chính tại Ủy ban kinh tế của Chính phủ Quốc dân, Vụ trưởng Vụ công trình, kỹ sư giám sát Bộ Thủy lợi, Cục trưởng Cục Thủy lợi tỉnh Cam Túc kiêm Tổng công trình sư. Có thể nói, dù về học vị hay về kinh nghiệm, tại TQ rất ít người đạt được trình độ như Hoàng Vạn Lý. Khi làm công tác giảng dạy ở đại học Thanh Hoa, ông cũng thể hiện năng lực nghiên cứu khoa học rất xuất sắc. Thời gian 1953-1957, ông viết hai cuốn chuyên khảo “Tính toán dòng lũ” và “Thủy văn học công trình”, được đánh giá là hai bộ sách tiêu biểu về khoa học thủy văn thời đó. 

Giáo sư Hoàng Vạn Lý qua đời năm 2001. Con ông nói về ông như sau: “Dù là vấn đề học thuật hay quan điểm chính trị, dù có lợi hay không có lợi cho mình, cha tôi chỉ biết nói thật, không bao giờ nói dối”.
Thiết tưởng việc ôn lại bài học nói trên là điều cần thiết cho tất cả những nhà lãnh đạo chưa biết thực sự tôn trọng khoa học và dân chủ. Mặt khác, các nhà khoa học cũng cần hiểu rằng sự thiếu trung thực của họ có thể gây tai họa lớn chừng nào.

Nguyễn Hải Hoành

Tác giả

(Visited 3 times, 1 visits today)