Tương lai nghiên cứu sinh học ở Ấn Độ

Ấn Độ đã có được niềm tin sau khi thu được thành công nổi bật trong công nghiệp công nghệ thông tin. Giờ đây, quốc gia này đang lấy đà để đột phá vào lĩnh vực khoa học đời sống như sinh học. Jyotsna Dhawan, Trung tâm sinh học phân tử và tế bào ở Hyderabad, nói “Thế giới của chúng ta đang thu nhỏ lại và những dòng chảy không ngừng của thông tin toàn cầu xuyên suốt các lục địa chỉ bằng động tác chạm nhẹ vào đầu con chuột đã làm cho Ấn Độ cảm nhận rằng, quốc gia này đang trở thành một phần quan trọng của hệ thống khoa học toàn cầu”. Bên cạnh những thuận lợi do có nguồn nội lực dồi dào, nhưng Ấn Độ cũng phải đương đầu với nhiều khó khăn là những hạn chế trong hệ thống quản lý khoa học. Vậy làm thế nào để quốc gia này vươn lên trở thành nước đi đầu trong nghiên cứu sinh học.

Những hạn chế trong hệ thống quản lý quỹ khoa học
Theo truyền thống, những viện nghiên cứu sinh học chuyên đề có hai nguồn cung cấp tài chính: Hội đồng Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp (CSIR) và Bộ Khoa học và Công nghệ (DST) cùng với Văn phòng Công nghệ sinh học (CNSH). CSIR thường cấp kinh phí cho những công trình nghiên cứu lớn, trong khi DST và Văn phòng CNSH lại chú trọng hỗ trợ những dự án nhỏ. Nhìn bề ngoài, CSIR cung cấp kinh phí nghiên cứu theo quy trình hành chính đồng bộ, nhưng thực tế, nó vẫn  phải chịu đựng cách làm việc quan liêu không hiệu quả. Chính điều này đã gây cản trở cho những nhà phát minh trẻ mong muốn tìm kiếm và thiết lập những chương trình nghiên cứu mới. Ngân sách nghiên cứu phóng khoáng không quan trọng bằng việc tạo ra một kế hoạch hành chính hiệu quả.
 

Một hạn chế nữa đó là chương trình nghị sự của các quỹ được phát triển liên kết với một nhóm các quan chức khoa học, thường xa rời thực tế về những lĩnh vực nghiên cứu mới. Điều này có xu hướng dẫn đến việc quan tâm nhiều hơn đối với các lĩnh vực như sinh học tế bào gốc, các nhóm biến đổi gen, vacxin điều trị AIDS, là những lĩnh vực mà khả năng nghiên cứu cơ bản cần được đẩy mạnh trước khi các ứng dụng được xem xét.
Sự thiếu hụt các nhà khoa học xuất sắc để xem xét hồ sơ đăng kí đề tài cũng là một khó khăn. Thêm vào đó, quá trình xem xét dự án thường không kiểm tra cẩn thận thành tích khoa học của người đăng kí đề tài, dẫn đến ưu tiên tài trợ cho các nhà khoa học nổi tiếng, những người này thường không yêu cầu có chuyên môn trong lĩnh vực đăng kí. Xu hướng chọn những vấn đề khoa học an toàn và tránh các dự án nhiều rủi ro cần phải được thay thế bằng sự pha trộn giữa rủi ro và sáng tạo. Sự miễn cưỡng trong khảo sát các nghiên cứu dẫn đến sự thoái hóa các tiêu chuẩn khoa học.
Một vấn đề quan tâm khác đó là sự thiếu hiểu biết của các lãnh đạo phòng thí nghiệm về những nhân tố thúc đẩy quá trình nghiên cứu. Một cách khó hiểu là, những nhà khoa học có xu hướng quên đi những khó khăn đã trải qua khi còn trẻ một khi họ đã có được những vị trí cao, như trưởng phòng thí nghiệm hoặc thành viên của hội đồng là những người nắm giữ việc điều khiển chính sách quỹ khoa học. Trong phạm vi các phòng thí nghiệm, việc ra quyết định tập trung vào giới lãnh đạo và các nhà nghiên cứu có rất ít tiếng nói trong các quyết định mà nó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng nghiên cứu của họ. Điều này tạo ra tình huống là các nhà khoa học cảm thấy mình không liên quan đến quá trình phát triển của các viện và bất lực trước hệ thống thứ bậc kỳ cục.

Tăng cường đầu tư cho khoa học ứng dụng

Ấn Độ là một nước đang phát triển, và quốc gia này có định hướng phát huy mọi khả năng của khoa học phục vụ những nhu cầu thiết yếu của đất nước. Đất nước Nam Á này đang tập trung đầu tư vào khoa học ứng dụng và để lại một ít không gian cho nghiên cứu cơ bản. Những cơ quan quản lý quỹ đều tăng cường hỗ trợ cho những nghiên cứu tạo ra sản phẩm mang lại lợi ích trực tiếp cho xã hội.
Ở Mỹ, các nhà khoa học thường xuyên phàn nàn về những khó khăn trong việc hỗ trợ kinh phí NIH của họ. Thật ngạc nhiên, việc cung cấp kinh phí nghiên cứu lại không phải là vấn đề trong giới nghiên cứu Ấn Độ, bởi vì hầu hết những kế hoạch nghiên cứu chất lượng tốt gửi tới những cơ quan quản lý quỹ như DBT, DST và Hội đồng nghiên cứu y tế Ấn Độ đều được duyệt cấp kinh phí. Tuy nhiên, số tiền cấp cho những công trình nghiên cứu thường rất nhỏ (10,000-15,000 USD/năm), vì vậy buộc các nhà khoa học Ấn Độ phải tìm rất nhiều nguồn cung cấp kinh phí nghiên cứu khác nhau.
Chính phủ Ấn Độ đang tăng cường hỗ trợ cho nghiên cứu và phát triển (R&D). Ngân sách của DBT và ICMR đã tăng lên trong sự vượt quá tốc độ lạm phát qua thập kỷ trước. Lượng tài chính được hỗ trợ bởi DBT và ICMR cho nghiên cứu sinh học được tăng lên. Cụ thể, nó đã tăng mức trợ cấp trung bình lên 30% (từ 10,000 USD lên 15,000 USD/năm). Những viện nghiên cứu mới như Trung tâm Sinh học phân tử và tế bào (CCMB) ở Hyderabad và Trung tâm Sinh học Quốc gia (NCBS) ở Bangalore được thành lập với nhiệm vụ thực hiện những nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực sinh học và những lĩnh vực liên quan phục vụ cuộc sống. Những nỗ lực vượt bậc của các nhà khoa học trong và ngoài nước đã tạo nên sức mạnh nghiên cứu nòng cốt, và tạo ra một bầu không khí lạc quan cho triển vọng nghiên cứu khoa học ở quốc gia này.

Con đường phía trước
Mặc dù phải đương đầu với nhiều thử thách phía trước, rất nhiều nhà nghiên cứu tin rằng, tương lai đang trở lên sáng sủa hơn đối với nghiên cứu sinh học ở Ấn Độ. Điều này được phản ảnh một cách rõ ràng không chỉ ở việc xuất hiện những bài báo của những nhà sinh học Ấn Độ trên những tạp chí nghiên cứu chuyên ngành quốc tế uy tín với những chỉ số tương tác cao, mà còn ở việc tăng số lượng nhà sinh học trẻ chất lượng cao, những người này đang trở về Ấn Độ để bắt đầu những chương trình nghiên cứu mũi nhọn. Ở phương Tây, những nhà khoa học trẻ này có thể dễ dàng nhận được những vị trí hấp dẫn, nhưng do nhiều lý do, họ đã chọn con đường trở về Ấn Độ.
Để phát huy tối đa tiềm năng của mình liên quan đến những nghiên cứu sinh học, theo các nhà khoa học hàng đầu của Ấn Độ thì quốc gia này cần phải có những cải cách trong các hệ thống khoa học: Những chương trình nghiên cứu và những đề xuất trợ cấp lớn phải được xem xét bởi những nhà khoa học độc lập đang làm việc ở ngoài đất nước Ấn Độ. Có rất nhiều nhà khoa học Ấn Độ làm việc ở nước ngoài muốn tham gia vào công việc này; Ấn Độ cần một hệ thống linh động hơn nhưng nghiêm ngặt hơn cho việc khuyến khích những nhà sinh học tài năng dựa trên những tiêu chuẩn khoa học khách quan. Hệ thống này cần hạn chế những nhà khoa học tầm thường và khuyến khích những nhà khoa học giỏi, tất nhiên, phải bằng tài chính; Truyền thống ra quyết định dựa trên số đông thay vì dựa trên một vài người nên phát triển trong các viện khoa học; Ngoài ra cần phải thiết lập những nguồn hỗ trợ khởi đầu dồi dào và chương trình quản lý cho những nhà khoa học trẻ để tăng khả năng cạnh tranh của họ. Hỗ trợ nghiên cứu cho các nhà khoa học Ấn Độ trẻ từ các tổ chức tài trợ quốc tế như Welcome Trust của Anh hay Viện Y học Howard Hughes sẽ nâng cao chất lượng nghiên cứu; Không chỉ những nghiên cứu sinh sau tiến sỹ mà ngay cả những sinh viên tốt nghiệp có thể tham gia vào hoạt động nghiên cứu trên những thiết bị khoa học hiện đại. Thật là không may mắn, hầu hết những tiến sỹ ở Ấn Độ đều rời đất nước để tiếp tục theo đuổi chương trình sau tiến sỹ ở nước ngoài. Vì vậy, những cơ quan quản lý quỹ nghiên cứu phải tìm cách khuyến khích để giữ lại một số nghiên cứu sinh nhất định và thu hút những sinh viên ngoại quốc giỏi đến Ấn Độ để tiếp tục những chương trình đào tạo bậc cao; Ấn Độ cũng cần đầu tư vào cơ sở hạ tầng của các viện nghiên cứu, trường đại học, không chỉ dừng ở việc mua sắm thiết bị mới mà còn phải duy trì và sử dụng chúng hiệu quả. Nguồn tài chính nên được cung cấp để khuyến khích hợp tác liên ngành và chia sẻ những công nghệ đắt tiền; Ấn Độ cần đưa những chương trình đào tạo MD/PhD để đảm bảo việc chuyển những khám phá khoa học cơ bản thành những lợi ích y tế; Cuối cùng, thúc đẩy giáo dục đào tạo chất lượng cao trong lĩnh vực sinh học ở bậc đại học. Điều này sẽ khuyến khích những sinh viên giỏi tiếp cận đến những đẳng cấp nghiên cứu mới.
Ấn Độ có nhiều tiềm năng: một truyền thống hiếu học, một lực lượng lớn những tài năng khoa học, nguồn đa dạng sinh học phong phú, một dân số đông đảo cho nghiên cứu về những biến đổi gen liên quan đến bệnh tật. Bởi vậy, cộng đồng nghiên cứu về lĩnh vực khoa học cuộc sống của Ấn Độ đã tạo ra một đột phá quan trọng trong lĩnh vực sinh học hệ thống. Việc chuyển từ nghiên cứu hóa lý truyền thống trong sinh học sang những nghiên cứu về cơ chế bệnh sẽ trở thành một thế mạnh nghiên cứu cho tương lai. Có rất nhiều nhà khoa học Ấn Độ đang làm việc ở nước ngoài mong muốn được đóng góp để làm tăng chất lượng nghiên cứu của đất nước mình. Phương tiện thông tin đại chúng ở Ấn Độ cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc giáo dục và thông tin cho người dân về những phương pháp khoa học, tiến bộ nghiên cứu và những lợi ích của khoa học đối với xã hội. Nhưng trên tất cả, những nhà khoa học Ấn Độ cần phải được cung cấp một môi trường nghiên cứu thật tốt đầy kích thích và sáng tạo. Việc này sẽ nâng những nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực sinh học lên một tầm cao mới.

Đức Phường (Theo Sciencedirect, Cell)

Tác giả

(Visited 27 times, 1 visits today)