Gắn kết giữa đào tạo với nghiên cứu và quá trình xây dựng nhà máy điện hạt nhân

Đối với một quốc gia triển khai dự án ĐHN đầu tiên như Việt Nam, việc có nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng ngay từ giai đoạn đầu của dự án là không thể thực hiện được. Vì vậy đã có nhiều lo ngại về khả năng Việt Nam không có đủ nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ chương trình ĐHN mà trước hết là chuẩn bị cho dự án ĐHN Ninh Thuận 1, Ninh Thuận 2.

Xuất phát điểm không quá thấp

Theo kinh nghiệm của các quốc gia có nền công nghệ tiên tiến về ĐHN cũng như hướng dẫn của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), nguồn nhân lực có vai trò quyết định đến sự thành công của dự án điện hạt nhân (ĐHN) cũng như của chương trình phát triển ĐHN. Bởi đây là lĩnh vực đòi hỏi sự phát triển của trình độ KH&CN cũng như của các ngành công nghiệp khác và được tích lũy kinh nghiệm theo thời gian.

Đối với một quốc gia triển khai dự án ĐHN đầu tiên như Việt Nam, việc có nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng ngay từ giai đoạn đầu của dự án là không thể thực hiện được. Vì vậy đã có nhiều lo ngại dấy lên về khả năng Việt Nam không có đủ nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ chương trình ĐHN mà trước hết là chuẩn bị cho dự án ĐHN Ninh Thuận 1, Ninh Thuận 2.

Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn như vậy, Việt Nam vẫn có những thuận lợi mà không phải bất cứ quốc gia nào mới phát triển chương trình ĐHN cũng có được, đó là chúng ta có số lượng khá đông và phong phú về cơ cấu các cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý làm việc tại các cơ quan nghiên cứu, ứng dụng năng lượng nguyên tử. Với 32 năm vận hành lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt đảm bảo an toàn, các cán bộ Việt Nam, đặc biệt là Viện Nghiên cứu hạt nhân (Đà Lạt), đã tích lũy được những tri thức quý báu về thực nghiệm và tính toán thông số vật lý – kỹ thuật lò phản ứng. Ngoài ra, chúng ta cũng có đội ngũ các nhà khoa học, chuyên gia, cán bộ kỹ thuật có am hiểu và nghiên cứu nhiều năm về các lĩnh vực liên quan như: cấu trúc hạt nhân, số liệu hạt nhân, an toàn bức xạ, quản lý chất thải, đánh giá tác động môi trường,… Qua đợt phối hợp với IAEA, Hoa Kỳ và Nga thực hiện thành công việc chuyển đổi vùng hoạt nhiên liệu từ độ giàu cao sang độ giàu thấp và chuyển trả nhiên liệu đã cháy về Nga (tháng 7/2013), đội ngũ cán bộ kỹ thuật Việt Nam đã có cơ hội tiếp cận các kỹ thuật về tính toán, thiết kế, lắp đặt, đo đạc thực nghiệm,…lò phản ứng, cũng như đã quản lý và giám sát rất tốt toàn bộ quá trình thực hiện công việc phức tạp này. Bên cạnh đó, trong những năm qua, một số lượng cán bộ kỹ thuật của Việt Nam đã tốt nghiệp thạc sỹ và tiến sỹ tại các nước tiên tiến trong lĩnh vực ĐHN. Hàng trăm lượt chuyên gia nước ngoài đã đến hỗ trợ Việt Nam; hàng trăm lượt cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật của các cơ quan chức năng đã được huấn luyện, bồi dưỡng ở nước ngoài nhằm bổ sung kiến thức và kỹ năng cần thiết cho yêu cầu triển khai chương trình ĐHN. Đây là một tiền đề quan trọng trong việc hoàn thiện một số nội dung phát triển cơ sở hạ tầng ĐHN, củng cố niềm tin của công chúng và cộng đồng quốc tế đối với thực tiễn vận hành, quản lý an toàn năng lượng hạt nhân ở Việt Nam.

Nhu cầu tập trung đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cần thiết phục vụ phát triển ĐHN cho các cơ quan quản lý nhà nước, nghiên cứu – triển khai và hỗ trợ kỹ thuật lên tới 1000 người với quy mô gần 3000 lượt người và kinh phí trên 500 tỷ đồng trong giai đoạn đến năm 2020.

Đồng thời, thành tựu của 20 năm đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đem lại cho Việt Nam một lực lượng kỹ sư công nghệ, cán bộ kỹ thuật, cán bộ kỹ thuật về xây lắp, cơ khí, tự động hóa, điện tử, hóa học, chế tạo máy,… trưởng thành qua quá trình tham gia những công trình công nghiệp lớn về dầu khí, nhiệt điện, thủy điện,…của đất nước. Khi phát triển chương trình ĐHN, họ sẽ là những nhân tố quan trọng bên cạnh đội ngũ các cán bộ, nhà nghiên cứu trong lĩnh vực vật lý hạt nhân, kỹ thuật hạt nhân để trở thành một lực lượng tổng thể phục vụ dự án nhà máy điện hạt nhân.  

Một lợi thế nữa là chúng ta có các trường đại học, cao đẳng và trung cấp kỹ thuật về khoa học, kỹ thuật và công nghệ tốt, có kinh nghiệm về đào tạo; tại các bậc học phổ thông đã có sự tiếp cận ban đầu với các kiến thức về vật lý và các kiến thức liên quan. Như vậy, có thể nói hạ tầng cơ sở cho việc đào tạo nhân lực phục vụ chương trình ĐHN là khá tốt. Bên cạnh đó, nhờ sự hợp tác với Liên bang Nga thông qua Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ năm 2010 đến nay đã có trên 350 sinh viên Việt Nam theo học đại học chuyên ngành ĐHN tại Đại học MEPHI ở Obninsk, lứa sinh viên đầu tiên sẽ tốt nghiệp vào cuối năm 2016.

Kế hoạch đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ĐHN

Theo đánh giá của Bộ KH&CN, nguồn nhân lực cần phải tập trung đào tạo, bồi dưỡng để phát triển năng lực trong giai đoạn đến năm 2020 là 1.000 người, trong đó 200 người làm công tác quản lý nhà nước, 800 người làm công tác nghiên cứu – triển khai và hỗ trợ kỹ thuật. Trong tổng số 1.000 người, 550 người thuộc Bộ KH&CN, 450 người thuộc các Bộ, ngành và tỉnh Ninh Thuận. Về trình độ chuyên môn, nguồn nhân lực 1.000 người gồm có khoảng 600 cử nhân, 300 thạc sỹ và 100 tiến sỹ các chuyên ngành khác nhau, được bố trí làm việc theo 40 chuyên môn/công việc khác nhau trong lĩnh vực ĐHN, mỗi chuyên môn/công việc có từ 10 – 30 người. Cơ cấu năng lực của toàn bộ nguồn nhân lực và của từng nhóm chuyên môn/công việc cần phải được xây dựng theo cấu trúc hình tháp gồm ba cấp năng lực chủ yếu với số lượng tương ứng cho mỗi cấp.

– Cấp cơ sở: khoảng 500 người có kiến thức, kỹ năng cơ bản cần thiết có thể áp dụng trong chuyên môn/công việc phục vụ phát triển ĐHN; tốt nghiệp đại học, kinh nghiệm công tác từ hainăm trở lên; đã qua các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cơ sở.

– Cấp nâng cao: cần khoảng 400 người, có kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm được tích hợp để tạo thành năng lực có thể áp dụng trực tiếp và thường xuyên trong chuyên môn/công việc phục vụ phát triển ĐHN; tốt nghiệp đại học (sau đại học hoặc tương đương đối với người làm chuyên môn/công việc kỹ thuật), kinh nghiệm công tác từ 10 năm trở lên; đã qua chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao.

– Cấp chuyên gia: cần khoảng 100 người có năng lực chủ trì thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước, nghiên cứu – triển khai và hỗ trợ kỹ thuật phục vụ phát triển ĐHN; tốt nghiệp đại học (tiến sỹ hoặc tương đương đối với người làm chuyên môn/công việc kỹ thuật), kinh nghiệm công tác từ 15 năm trở lên; đã qua chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu. Trong số đó, một bộ phận chuyên gia có trình độ cao, có năng lực giải quyết các công việc phức tạp, những nhiệm vụ có tính chiến lược, lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ quản lý và kỹ thuật.

Với cách tiếp cận như vậy, Cục Năng lượng nguyên tử đã chủ trì, phối hợp xây dựng “Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực Quản lý nhà nước, nghiên cứu triển khai và hỗ trợ kỹ thuật phục vụ chương trình điện hạt nhân đến năm 2020” để lãnh đạo Bộ KH&CN đề xuất lên Chính phủ. Mục tiêu tổng quát của Kế hoạch là phát triển năng lực của nguồn nhân lực quản lý nhà nước, nghiên cứu – triển khai và hỗ trợ kỹ thuật đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng cho việc triển khai hiệu quả, an toàn, an ninh Dự án ĐHN Ninh Thuận và chương trình phát ĐHN. Các giải pháp chủ yếu để triển khai thực hiện Kế hoạch bao gồm: Rà soát, sắp xếp, bổ sung nguồn nhân lực bảo đảm số lượng và cơ cấu chuyên môn phù hợp; Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù về đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển ĐHN; Xây dựng và hoàn thiện chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng; xây dựng cơ sở dữ liệu chuyên gia, nhân lực phục vụ phát triển ĐHN; tăng cường trang thiết bị, phương tiện giảng dạy; Đẩy mạnh và mở rộng hợp tác quốc tế; Thường xuyên áp dụng cách tiếp cận tổng thể trong kế hoạch đào tạo đối với từng đơn vị và từng nhóm chuyên môn/công việc (Systematic Approach to Training).

Điều quan trọng là quá trình đào tạo nguồn nhân lực phải gắn kết việc triển khai kế hoạch với các chương trình nghiên cứu, các nhiệm vụ của thực tiễn quản lý và kỹ thuật của chương trình ĐHN.

Trong kế hoạch này, một số chính sách, quy chế đặc thù nhằm thu hút những người tham gia chương trình ĐHN đã được đề xuất nhằm bổ sung những điều chưa có trong những chính sách ưu đãi đã ban hành trước đó. Những chính sách này đem lại cơ hội được hưởng những chế độ ưu đãi cho người hoạt động trong lĩnh vực ĐHN, thoạt nhìn có vẻ cao hơn so với những người thuộc các lĩnh vực khác nhưng xét về tổng thể, số lượng được hưởng chỉ tập trung vào một số nhóm nhất định nên không đòi hỏi sự đầu tư quá lớn từ ngân sách nhà nước, tránh được nỗi lo lãng phí nguồn vốn. Nếu chưa giải quyết được những vấn đề như vậy thì chúng ta sẽ vẫn chỉ loay hoay quanh những câu chuyện cũ, vấn đề cũ mà không thể giải quyết được triệt để các vấn đề mà thực tế đặt ra.

—————-

* TS., Cục trưởng Cục Năng lượng nguyên tử (Bộ KH&CN)

Tác giả