Quá tải giáo dục ở đô thị: Nhìn từ quy hoạch đô thị

Một trong những nguyên nhân khiến hạ tầng giáo dục ở Hà Nội và TP.HCM trong suốt mười lăm năm qua luôn ở trong tình tạng quá tải là do quy hoạch thiếu đồng bộ trong quá trình phát triển đô thị.

Các lớp tiểu học ở trường Chu Văn An, quận Hoàng Mai có sĩ số khoảng 50 em/ lớp. Nguồn: Vietnamnet

Thực trạng quá tải của ngành giáo dục

Trong hội trường chật kín ghế của 176 cha mẹ học sinh và cả một số em đi theo cha mẹ, tất cả mọi người chăm chú nhìn lên chiếc bàn đặt hộp bốc thăm chọn lựa trẻ vào trường mẫu giáo và dõi theo từng lần bốc thăm. Hồi hộp trả lời báo chí tại buổi bốc thăm có tỉ lệ “chọi” cao như thi đại học, chị Trang cho biết rất băn khoăn vì “mình cứ nghĩ có hộ khẩu ở đây là con sẽ có một suất vào trường công”.

Khi chị Trang và những phụ huynh khác bốc thăm may mắn có con trúng tuyển, cả hội trường vỗ tay. Nhưng số người may mắn chỉ chiếm hơn 1/3 những người có mặt trong hội trường hôm ấy vì trong số 180 trẻ đăng ký vào trường mầm non Hoàng Liệt, cơ sở Tứ Kỳ, chỉ có 80 trẻ có suất học trường công lập này.

Hoàng Liệt, thuộc quận Hoàng Mai, là một trong những “siêu phường” ở Hà Nội từ nhiều năm nay, được báo chí phản ánh là có tới 80.000 dân, cứ mỗi năm có khoảng 1.500 – 1.800 trẻ được sinh ra. Nhưng phường này chỉ có 1 trường mầm non, 3 trường tiểu học, 2 trường THCS nên các trường luôn rơi vào tình trạng quá tải. Nhiều lớp học ở Hoàng Liệt đã phải chấp nhận những phòng học ngột ngạt quá tải với tỉ lệ học sinh lên tới 60 học sinh/lớp học. Tỉ lệ một giáo viên phải đứng lớp 50 – 60 học sinh là quá cao so với các mô hình giáo dục trên thế giới, các nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỉ lệ học sinh trên giáo viên lý tưởng là không vượt quá 18/1, nếu vượt ngưỡng 40 học sinh/1 giáo viên thì hiệu quả học tập suy giảm đáng kể1.

Ở TP.HCM, những quận có mức tăng dân số cơ học cao như TP Thủ Đức, quận 12, quận Bình Tân, huyện Bình Chánh, huyện Hóc Môn… cũng “chung cảnh ngộ” của Hoàng Liệt. Trung bình mỗi năm quận Bình Tân tăng thêm từ 4.000 – 5.000 học sinh các cấp (chỉ tính hệ công lập). Tính ra, mỗi năm quận phải xây dựng thêm ít nhất 3 trường mới với quy mô 30 phòng học/trường mới đáp ứng được chỗ học như mong muốn. TP.HCM tăng khoảng 40.000 học sinh/ năm và tập trung nhiều ở bậc tiểu học.

Suốt hơn một thập niên đô thị hóa chóng mặt nhưng không đồng bộ đã khiến cho ngành giáo dục phải loay hoay chống đỡ một cách vá víu.

Những điển hình nổi cộm trên báo chí như quận Hoàng Mai hay Bình Tân không phải là những điểm nóng duy nhất. Ngành giáo dục ở cả Hà Nội và TP. HCM đều loay hoay không biết phải tìm đâu thêm trường công cho trẻ học. Hệ thống giáo dục công lập với nhiều ưu điểm là cơ sở vật chất được ngân sách đầu tư, gần như miễn hoàn toàn học phí hoặc phải đóng góp rất thấp, là cơ sở đào tạo nguồn nhân lực chính yếu trong cả nước, đặc biệt là dành cho phần lớn các gia đình hiện nay không có khả năng chi trả học phí ở trường tư, nhưng nay, sau nhiều năm căng mình gồng gánh, đã tới lúc quá sức tải. Trả lời báo Tuổi trẻ, một cán bộ Phòng GD&ĐT quận Bình Tân, TP.HCM phải thốt lên “Cứ theo đà tăng học sinh như hiện nay, e rằng chỉ vài năm nữa sẽ không có đủ chỗ học cho tất cả học sinh”.

Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn vào những điểm nóng như Hoàng Mai hay Bình Tân thì có dễ thiên kiến và khuếch đại tình trạng quá tải của giáo dục ở các thành phố này?

Công bằng mà nói, trên nỗ lực chung của cả nước, ngành giáo dục đã xây dựng cơ sở vật chất, giúp tăng trưởng hệ thống giáo dục, đặc biệt là giáo dục mầm non tương đối đáng kể. Điều đó thể hiện qua số trường mầm non trên một vạn dân trung bình trong cả nước vào năm 2019 là 83,91 trường (tăng hơn 2,5 so với mức 31.76 trường ở thời điểm 2005). Nhưng nhìn kỹ vào các thành phố lớn thì mới thấy con số này không tăng bao nhiêu sau một thập niên rưỡi, “Số trường mầm non của hai thành phố này trong năm 2019 chỉ đạt khoảng 47 trường/10.000 dân, tức là chỉ bằng khoảng một nửa so với mức trung bình gần 84 trường/10.000 dân trong cả nước”, TS. Trần Quang Tuyến, Đại học Quốc tế, Đại học Quốc gia Hà Nội cho biết. “Vấn đề quá tải càng trầm trọng hơn khi gia tăng và tập trung dân cư lớn ở một số khu vực (ví dụ: trung tâm thành phố hoặc một số khu vực đông dân khác như quận Hoàng Mai, Thanh Xuân) khiến cho tỷ lệ số trường mầm non trên 10.000 dân giảm xuống còn dưới 20 trường”.

Không chỉ thiếu trường lớp, tình trạng một giáo viên phải đứng lớp quá đông khiến cho chất lượng giảng dạy và tập trung học tập chắc chắn bị ảnh hưởng. Mặc dù đã có nỗ lực cải thiện tỉ lệ học sinh / giáo viên nhưng xuyên suốt giai đoạn từ 2008 đến 2019, tỷ lệ này ở Việt Nam vẫn cao gấp nhiều lần so với mô hình chuẩn trên thế giới. Cụ thể, thống kê của TS. Trần Quang Tuyến và Ths. Lê Văn Đạo cho thấy tỷ lệ học sinh/giáo viên trung bình cả nước tính đến năm 2019 vẫn ở mức trên 62/1 mặc dù đã nỗ lực giảm so với mức 94/1 năm 2004; Đối với Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thì tỷ lệ này duy trì ở mức 50/1 (so sánh với tỉ lệ mô hình chuẩn của thế giới chỉ là 18/1).

Khu Linh Đàm, Q. Hoàng Mai liên tục phá kỷ lục về mật độ dân cư và mật độ cao ốc dày đặc. Ảnh: Vietnamnet

Chưa cần so sánh với quốc tế, nhìn vào những con số này ở Hà Nội và TP. HCM thấy rõ ràng là cơ sở vật chất và nguồn nhân lực cho giáo dục ở hai đầu tàu này đang kém so với các tỉnh/thành phố đang trên đà tăng trưởng kinh tế-xã hội tương đối nhanh chóng (ví dụ tiêu biểu như Hải Phòng, Bắc Ninh, Quảng Ninh). Các thành phố này đã đầu tư mở rộng nhanh chóng cả về số lượng các trường học, giáo viên và lớp học. Cụ thể, dù chưa bằng con số chung của cả nước nhưng số lượng trường mầm non/10.000 dân và số lớp học/10.000 của một số tỉnh thành như Bắc Ninh và Quảng Ninh đã lên được 62,6 trường/10.000 dân và 2.188 lớp/10.000 dân.

Thậm chí, các con số thống kê này của TS. Trần Quang Tuyến và Ths. Lê Quang Đạo vẫn chưa phản ánh hết tình trạng quá tải và thiếu thốn riêng ở các trường công hiện nay ở hai đầu tàu kinh tế của đất nước. “Chúng tôi không có số liệu của riêng các trường công mà chỉ tính được số liệu chung của ngành giáo dục”, TS. Trần Quang Tuyến cho biết. Nhưng rõ ràng là nỗi lo của người cán bộ quản lý giáo dục ở Bình Tân về việc “cứ đà này sẽ không còn đủ chỗ học cho tất cả học sinh” là có cơ sở. Bởi vì chúng ta có tiền lệ: nhìn lại hơn chục năm qua, giai đoạn phát triển kinh tế xã hội nóng không đi cùng với khả năng đáp ứng về tỉ lệ trường học trên 10.000 dân. Khi mà “số trường Tiểu học, Trung học cơ sở (THCS) và Trung học phổ thông (THPT)/10.000 dân trong xuyên suốt giai đoạn từ 2008-2019 không gia tăng”, theo phân tích số liệu thống kê của Ths. Trần Quang Tuyến và TS. Lê Quang Đạo.

Giữa những lựa chọn

Thực ra, việc đặt học sinh mầm non vào lựa chọn may rủi để có một suất vào trường công là “cực chẳng đã” vì một ngôi trường công không thể gánh áp lực mỗi năm một phường tăng cả nghìn trẻ, ngay cả toàn ngành giáo dục cũng chỉ chèo chống được một phần. Vấn đề ở trong bài toán lớn hơn: quy hoạch hạ tầng dịch vụ công ở đô thị. Cả Hà Nội và TP. HCM đều đang vươn mình trở thành siêu đô thị khi mỗi năm dân số Hà Nội tăng khoảng 200 nghìn dân, TP. HCM cũng tăng khoảng 250 nghìn dân, chủ yếu là tăng dân số cơ học do người nhập cư – trong đó đa số là nhóm dân số trẻ, gia đình trẻ – tới hai thành phố, nhưng cơ sở hạ tầng giáo dục tăng không thấm vào đâu.

“Bắt đầu từ 2010, rõ rệt nhất là từ 2015 đến nay tốc độ di cư tới các thành phố lớn quá nhanh, khiến Việt Nam trở thành một quốc gia có tốc độ đô thị hóa nhanh nhất thế giới”, TS. Phùng Đức Tùng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển Mekong (MDRD) nói. Ông cho biết, vào năm 2016, khi MDRI tiến hành nghiên cứu về hộ khẩu trong cả nước cho thấy 36% dân TP. HCM là di cư, Bình Dương có 75% dân là di cư, còn Hà Nội có khoảng 18%, nên sức ép lên các khu đô thị, công nghiệp rất lớn.

Nhìn vào bối cảnh ấy có thể “biện hộ” là các thành phố khá “bị động” và khó dự báo khi luồng dân cư đổ về quá nhanh, sau mỗi lần tổng điều tra thì bức tranh dân cư lại thay đổi chóng mặt. “Nếu nhìn vào số liệu trong quá khứ để dự báo biến động dân số trong tương lai thì nhiều khi không được cập nhật vì tổng điều tra dân số chỉ thực hiện 10 năm/ lần. Đặc biệt là biến động dân số hiện nay khó dự đoán vì không đồng đều, không ổn định”, TS. Phùng Đức Tùng nói. Đơn cử chỉ một khu công nghiệp như Samsung mọc lên sẽ thu hút 200.000 lao động, kéo theo là cả gia đình, con cái họ; hoặc 10 năm trước không ai tưởng tượng được khu Hà Đông, Hà Nội có thể đông nghẹt như bây giờ. Thậm chí, Quy hoạch Thủ đô Hà Nội ban hành vào năm 2011 dự báo đến năm 2050, dân số Hà Nội tối đa khoảng 10,8 triệu người thì tới năm 2020 đã đạt con số này.

Tuy thế, trái ngược với mức tăng cơ sở hạ tầng giáo dục công một cách quá chậm chạp thì hệ số sử dụng đất ở, các khu đô thị mới được xây dựng nhanh chóng đáp ứng việc dân số cán mốc trước dự báo tới 30 năm. “Quy hoạch được điều chỉnh, nâng mật độ dân số lên cao nhưng không đi đồng đều với cơ sở hạ tầng dịch vụ công. Đáng lẽ cần có sự phối hợp giữa các sở ban ngành một cách bài bản để điều chỉnh các quy hoạch khác như giáo dục hay các hạ tầng xã hội khác đi theo”, nhưng “tôi không nghĩ là các nhà quản lý ở hai thành phố lớn đang làm được việc đó”, TS. Phùng Đức Tùng nói. Điều đó khiến cho “ở các khu vực này lĩnh vực giáo dục cũng hỗn loạn không khác gì giao thông”. Không chỉ các khu đô thị mới có mật độ dân cư đông đúc nhất hiện nay vắng bóng hạ tầng giáo dục công, các cam kết phải có trường học bị lờ đi mà các khu công nghiệp cũng chung cảnh ngộ. TS. Phùng Đức Tùng cho biết, nghiên cứu do Viện Nghiên cứu phát triển Mekong đang tiến hành khảo sát đánh giá cơ sở vật chất của các trường mầm non, tiểu học ở các khu công nghiệp cho thấy các tiêu chuẩn như sĩ số tối đa, cơ sở vật chất như sân chơi, phòng cho trẻ bán trú đều không đáp ứng được.

Suốt hơn một thập niên, đô thị hóa chóng mặt nhưng không đồng bộ đã khiến cho ngành giáo dục phải loay hoay chống đỡ một cách vá víu. Việt Nam cũng không thể nhìn vào lộ trình phát triển của các nước để rút bài học kinh nghiệm cho mình, vì không có kinh nghiệm gì có thể giúp ích cho tình trạng quá tải tới mức hỗn loạn này, TS. Phùng Đức Tùng nhấn mạnh nhiều lần. Nhưng chúng ta không thể nào quay ngược chiều kim đồng hồ về thời điểm chưa xảy ra quá tải để sửa chữa được nữa. Theo TS. Phùng Đức Tùng, trước tiên hai thành phố lớn không thể bố trí thêm chung cư cao tầng nữa, đồng thời phải tận dụng mặt bằng các nhà máy cũ chuyển đi để xây dựng trường học. Vấn đề ở đây là thành phố sẽ quyết tâm lựa chọn nào?

Nếu tiếp tục nhồi nhét cao ốc và thiếu đi cơ sở hạ tầng giáo dục (cũng như mọi cơ sở hạ tầng công khác về giao thông, y tế) thì theo thời gian, sẽ không còn cơ hội cứu vãn.

Theo TS.Phùng Đức Tùng, về lâu dài, việc rút kinh nghiệm chỉ có thể hữu ích khi giảm tải cho hai siêu đô thị, phát triển các đô thị vệ tinh để các khu vệ tinh tránh đi vào vết xe hiện nay. Đồng thời, quan điểm phát triển tập trung quá nhiều ở hai trung tâm lớn là hai siêu đô thị Hà Nội, TP. HCM là không phù hợp. Dịch bệnh COVID vừa qua và tình trạng quá tải cơ sở hạ tầng công cộng ở hai đô thị mang lại bài học lớn là không thể tập trung phát triển kinh tế và không thể thu hút dân số vào tập trung ở một vài nơi, nên chúng ta phải nghiên cứu tới việc phi tập trung sản xuất, khuyến khích các doanh nghiệp đem nhà máy, xí nghiệp đến các nơi có lao động dư thừa chứ không phải là thu hút lao động dư thừa đến các trung tâm.□

——

1 Public School Review [PSR]. (2022). How Important is the Student-Teacher Ratio for Students?  Retrieved 17th September, 2022 https://www.publicschoolreview.com/blog/how-important-is-the-student-teacher-ratio-for-students

Tác giả

(Visited 92 times, 1 visits today)