Con đường âm nhạc của Alban Berg

Chỉ với hơn một chục tác phẩm nhưng Alban Maria Johannes Berg đã để lại dấu ấn của mình trong lịch sử âm nhạc bằng tài năng khác thường. Âm nhạc của ông phản ánh thế giới nội tâm đầy phức tạp của con người thế kỷ 20 và con đường âm nhạc của ông biểu hiện cho ý chí, khát vọng tìm đến cái đẹp.

Berg sinh ngày 9/2/1885 tại Vienna trong một gia đình có bốn người con. Berg học bài học piano đầu tiên với cô giáo dạy trẻ của gia đình.

Năm Berg lên 5 tuổi, bố ông, vốn là một thương gia, đột ngột qua đời vì bệnh tim và việc kinh doanh của gia đình rơi và tay người lạ. Kinh tế gia đình trở nên khó khăn và phải nhờ đến sự hào phóng của người chú thì Berg mới được tiếp tục việc học của mình.
Thuở nhỏ, Berg quan tâm đến văn học nhiều hơn âm nhạc, nhưng từ năm 15 tuổi, ông bắt đầu tự học sáng tác âm nhạc. Năm 1902 ông có con với Marie Scheuchl, một người giúp việc trong gia đình.

Tháng 10/1904 ông vào làm việc tại văn phòng Chính phủ với ý định trở thành công chức Nhà nước. Nhưng tâm trí Berg lúc nào cũng hướng đến âm nhạc, trong phòng làm việc của ông treo đầy chân dung của các tác giả mà ông yêu thích: Beethoven, Ibsen, Mahler và Brahms.

Thời kỳ này Arnold Schoenberg đang ở Vienna, kiếm sống bằng cách chuyển soạn các bản nhạc và dạy sáng tác. Schoenberg bắt đầu nổi danh là một nhà cách mạng trong âm nhạc với các tác phẩm Gurrelieder, Verklärte Nacht, Pelleas und Melisande. Tình cờ đọc đuợc quảng cáo dạy học của Schoenberg, chú của Berg đã gợi ý ông đến học với nhạc sỹ này.

Schoenberg đã chấp nhận dạy Berg mà không nhận tiền công bởi ông nhận thấy trong Berg một cá tính cũng như trí thông minh khác thường. Các sáng tác ban đầu của Berg được Schoenberg nhận xét là chưa có tư duy khí nhạc, vẫn còn nặng tư duy ca khúc và lúc này Berg vẫn chưa thể sáng tác được cho các nhạc cụ, thậm chí cả việc phát triển một chủ đề đơn giản. Song dưới sự chỉ dạy của Arnold Schoenberg, Berg nhanh chóng học được các kỹ thuật sáng tác và đã có những tác phẩm đáng chú ý. Mở đầu là Seven early song viết cho piano, tác phẩm cho thấy Berg đã vận dụng một cách thành thục kỹ thuật phát triển chủ đề theo phương pháp hết sức “nghiêm khắc” của thầy mình.

Không lâu sau Berg đã có tác phẩm đánh số đầu tiên của mình và đó cũng là một trong những sáng tác nổi tiếng nhất của ông, Piano sonata Op. 1. Sonata này được Berg viết vào năm 1908, có thời lượng khoảng 11 phút, thể hiện rõ ảnh hưởng của Schoenberg trong cách phát triển chủ đề cũng như cấu trúc: các chủ đề của sonata này gần giống với các chủ đề của Chamber Symphony No. 1 của Schoenberg, và Berg cũng dùng cách phát triển nhiều chủ đề từ một chủ đề mà Schoenberg dùng. Bản sonata một chương này được Berg viết theo hình thức sonata kinh điển, cái khác biệt chính của sonata này là Berg đã sử dụng gam một cung và các hợp âm hiện đại một cách khéo léo khiến tác phẩm vừa rất hài hòa vừa mang tính hiện đại nhưng vẫn kế thừa các sáng tác của thời kỳ trước.

Năm 1909, Berg viết tác phẩm đánh số thứ hai của mình Vier Lieder, Op. 2 viết cho piano và giọng soprano. Tác phẩm gồm bốn bài hát viết trên lời thơ của Hebbel và Mombert cho thấy rõ sự trưởng thành trong kỹ thuật sáng tác cũng như tư duy nghệ thuật, đây cũng là các sáng tác cuối cùng mà Berg viết cho giọng hát và piano.

Năm 1914, lần đầu tiên Berg được xem vở kịch Wozzeck của nhà văn Georg Büchner và ông đã quyết định chuyển thể nó thành một vở opera. Ngay lập tức viết phác thảo cho opera này nhưng do đang bận với “ba tác phẩm viết cho dàn nhạc Op.6” nên Berg chỉ hoàn thành một phần nhỏ. Vào tháng 8 thì Đại chiến Thế giới thứ I nổ ra, Berg gia nhập quân đội Áo và phục vụ trong trại huấn luyện. Nhưng vì lý do sức khỏe nên Berg được chỉ định làm cảnh vệ ở Vienna và sau đó là làm trong văn phòng của Bộ Chiến tranh. Mặc dầu hết sức bận với công việc ở văn phòng nhưng Berg vẫn dành thời gian cho sáng tác.

Kết thúc chiến tranh, Berg rời quân đội và đứng ra quản lý Hiệp hội biểu diễn âm nhạc tư nhân (Society for Private Musical Performance) một tổ chức mà Schoenberg sáng lập ở Vienna nhằm đưa các sáng tác của các nhạc sỹ đương đại đến với công chúng. Các buổi hòa nhạc này thường tổ chức ở quy mô nhỏ, hạn chế với giới phê bình và các tác phẩm mới thường được tập luyện rất cẩn thận trước khi biểu diễn. Cũng chính nhờ scandal trong buổi biểu diễn do Schoenberg chỉ huy ngày 31/3/1913, tên tuổi của Berg trở nên nổi tiếng ở Vienna. Buổi biểu diễn, bao gồm toàn các tác phẩm mới của Schoenberg, Anton Webern, Mahler, và Berg đã làm khán giả mệt mỏi và khi đến tiết mục Five Orchestral Songs, Op.4 của Berg thì khán giả thể hiện sự quá khích một cách kịch liệt và phải có sự can thiệp của cảnh sát thì cuộc ẩu đả trong khán phòng mới chấm dứt. Cũng phải nói là do tác phẩm viết cho giọng soprano lại hát bởi giọng tenor cộng thêm phần chỉ huy không thật tốt của Schoenberg làm cho Berg cảm thấy chán nản và ông không bao giờ viết tác phẩm nào theo thể loại này nữa.

Năm 1923 vận may đã mỉm cười với Berg khi Ba tiểu phẩm viết cho dàn nhạc Op.6 (Drei Orchesterstücke) và Tứ tấu đàn dây Op.3 được biểu diễn thành công tại liên hoan âm nhạc ISCM tổ chức tại Salzburg. Một năm sau đó, Berg cũng hết sức thành công khi ba phác thảo trong opera Wozzeck được hưởng ứng nhiệt liệt tại Frankfurt. Đó là một tín hiệu đáng mừng để một năm sau đó, ngày 14/12/1925 opera Wozzeck lần đầu tiên được công diễn dưới sự chỉ huy của nhạc trưởng Erich Kleiber đã đưa Berg trở thành một trong những nhạc sỹ hàng đầu châu Âu.

Tháng 1/1923, Berg cho xuất bản phần thanh nhạc của vở Wozzeck và vài tuần sau ông bắt tay vào viết tác phẩm mới, Chamber Concerto. Tác phẩm gồm ba chương này mang đậm ngôn ngữ của trường phái 12 âm và có chủ đề là các nốt nhạc lấy từ các ký tự trong tên của ba thầy trò: Arnold Schonberg, Anton Webern, Alban Berg (cách lập chủ đề này lặp lại trong khá nhiều sáng tác khác của Berg và là thủ pháp khá phổ biến của các nhạc sỹ trường phái 12 âm cũng như trường phái tối giản – minimalism – sau này).

Cũng trong giai đoạn này Berg đem lòng yêu Hanna Fuchs-Robettin, một người họ hàng với bạn thân nhất của ông. Chính tình yêu đó là cảm hứng để Berg viết một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của mình – Lyric Suite. Có người coi Lyric Suite như là một vở opera mà Berg viết cho cuộc tình không thành của mình. Âm hưởng của toàn bộ tác phẩm vang lên các nốt nhạc lấy từ các ký tự trong tên của hai người ghép lại, Alban Berg và Hanna Fuchs. Lyric Suite được trình diễn lần đầu tại Vienna vào ngày 8/1/1927.

Ngày 26/10/1928, Berg có cuộc gặp gỡ quan trọng với người vợ của nhà viết kịch người Đức Frank Wedekind để xin phép chuyển thể bộ đôi kịch Lulu của ông (gồm hai vở Thổ địa và Chiếc hộp của Pandora) thành vở opera cùng tên sau này. Giai đoạn từ 1924 đến 1933, Berg không phải lo lắng về tài chính nữa, thành công của vở opera giúp ông kiếm được khá nhiều tiền (vở opera này được trình diễn ở 17 thành phố của Đức và nhiều trung tâm âm nhạc trên thế giới). Tuy nhiên vở opera Lulu cũng chịu sự gièm pha của khá nhiều nhà phê bình lúc bấy giờ, nó bị cho là không phản ánh đúng tính cách của người Đức và bản thân Berg khi trả lời phỏng vấn cũng cho rằng thành công của mình vẫn chỉ bó hẹp trong nước Đức mà thôi.

Năm 1933, cùng với sự nổi lên của phe cực hữu ở Đức mà sau này phát triển thành đảng Quốc xã, tình hình xã hội ở Đức trở nên u ám, các tác phẩm của Berg ít được biểu diễn. Berg tạm dừng viết Lulu và bắt tay vào viết hai tác phẩm theo yêu cầu là Der Wein (Rượu vang) và Violin Concerto. Der Wein là một concert aria cho giọng soprano và dàn nhạc, viết theo yêu cầu của ca sĩ giọng soprano Ruzena Herlinger dựa trên bài thơ Les Fleurs du Mal (Ác hoa) của Charles Baudelaire. Còn bản Violin Concerto có lẽ là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông nhưng bản thân Berg lại không được nghe trình diễn bản nhạc này một lần nào lúc sinh thời.

Tháng 8/1935, chỉ vài ngày sau khi hoàn thành Violin Concerto, Berg bị nhiễm khuẩn và biến chứng thành áp xe. Mặc dầu vậy Berg vẫn cố hoàn thành phần nhạc cho Lulu suite bao gồm các phần nổi bật của vở opera. Trở lại sau khi điều trị sức khỏe ở Carinthia, Berg được nghe Lulu suite trình diễn lần đầu ở Vienna. Chỉ một tuần sau đó ông qua đời vào ngày 23/12/1935 ở tuổi 50.

Opera Lulu được trình diễn lần đầu tại Zurich vào ngày 2/6/1937. Tại buổi biểu diễn này chỉ có hai màn được biểu diễn còn màn ba được thay thế bởi phần nhạc mà Berg đã viết trong Lulu suite chưa hoàn thành, chính vì vậy mà nó phá vỡ cấu trúc của toàn bộ vở opera này. Sau nhiều lần sửa chữa thất bại, vở Lulu đã được Nhà hát opera Paris biểu diễn thành công lần đầu và cùng với Wozzeck trở thành những tác phẩm opera tiêu biểu của thế kỷ 20. Cả hai vở opera này không chỉ giàu cảm xúc mà còn đánh dấu một mốc mới trong lịch sử phát triển opera sau thời kỳ của Wagner với vai trò của âm nhạc và kịch đạt đến sự cân bằng. Opera Lulu được dàn dựng ngày nay đa số dựa trên bản hoàn thiện của Cerha nhưng vẫn có một số đạo diễn và bản thân người vợ góa của Berg vẫn muốn Lulu giữ nguyên cấu trúc hai chương như nhà soạn nhạc đã hoàn hiện.
           
      

Tác giả