CUNG GIŨ NGUYÊN – một cuộc đời tìm và trao tặng tri thức
Đã từ lâu tôi rất muốn viết về ông, biết rằng đây là một việc rất khó vì – Ông, một nhà văn Việt Nam viết văn thuần thục 3 ngôn ngữ: Việt, Pháp, Anh; một nhà báo từng cộng tác với nhiều báo chí trong và ngoài nước; một người có 70 năm đi dạy học thì có một số lượng học sinh nhiều đến thế nào…; khối lượng và giá trị những tác phẩm ông đã viết; tuổi đời của tôi chưa bằng một nửa tuổi đời của ông…. Thôi thì, xin làm một người kể chuyện về một người qua tiếp xúc, trao đổi và qua những tài liệu thu thập được về ông.
Từ điển Văn học (bộ mới) – NXB Thế giới, 2004 (trang 330), Hà Nội có tên ông: “Cung Giũ Nguyên. (Sinh 1909). Nhà giáo dục, nhà báo, nhà văn Việt
Hôm ấy, trong căn phòng khách nhỏ bài trí đơn sơ nhưng trang trọng – trên tất cả các mặt bàn đều có những bình hoa; câu chuyện giữa tôi và ông đã bắt đầu bằng những điều chưa rõ về ông trong Từ điển Văn học (bộ mới). Ông tỏ ý tiếc là việc biên tập có vài sai sót:
– Trước tiên về việc chuyển họ Hồng thành họ Cung không phải vì cùng họ với Hồng Tú Toàn mà do là khi Vua Tự Đức lên ngôi, vì ngài húy Hồng Nhậm, nên những ai có họ Hồng phải sửa lại. Sau này có những người đã bỏ họ Cung để trở lại họ Hồng, nhưng cũng có những người để tránh việc sửa chữa những giấy tờ hộ tịch phiền phức cứ để họ Cung, dù vẫn biết mình họ Hồng. Việc sửa họ ấy, tôi ngạc nhiên là thợ sắp chữ ở Trung Hoa cũng biết; trên mấy tờ báo ở Hương Cảng, trong bài đăng tên những người từ Việt Nam qua hội kiến với Cựu Hoàng Bảo Đại. Dựa theo danh sách viết chữ La Mã họ tên hành khách chuyến máy bay, tên của tôi đã không viết CUNG, mà viết đúng HỒNG (= không có nghĩa là đỏ, mà với bộ Thủy bên trái, có nghĩa là Lớn).
Một điều đáng tiếc khác là: trong Từ điển Văn học có viết : “Le fils de la Balaine (tiểu thuyết, Paris, 1956) – cuốn này được Đe Xôn Đa Oanfisơ (De Sohn das Walfischs) dịch ra tiếng Việt với nhan đề Người con của Cá Ông hay Kẻ thừa tự ông Nam Hải (NXB Văn học, Hà Nội, 1999)”. Có sự sai lạc về phiên âm nhan đề và hành văn. Nên ghi lại cho rõ là, quyển Le Fils de la Baleine ra mắt ở Pháp năm 1956, đã được nhà văn Đức dịch ra tiếng Đức với nhan đề DER SOHN DAS WALFISCHS và được xuất bản năm 1957 tại (NXB) Helmut Kossodo Verlag, Frankfurt & Genf (Genève)”.
Điều thứ ba ông có ý tiếc là quyển Tự điển không nói đến những tác phẩm quan trọng của ông như THÁI HUYỀN, LE BOUJOUM, tập thơ TEXTE PROFANE (Bản văn trần tục)… ; hay, bỏ sót những quyển đã có từ lâu như tiểu luận: Volontés d’existence (Những ý chí sinh tồn) – (NXB France-Asie, Sài Gòn 1954).
***
Cung Giũ Nguyên sinh ngày 20/11/1909, tại Huế. Họ thật là họ Hồng cùng họ với Hồng Tú Toàn người khởi xướng cuộc cách mạng nông dân miền Nam Trung Hoa và lập Thái Bình Thiên Quốc, trị vì ở Nam Kinh từ 1851 đến 1863. Vì lý do chính trị hay kinh tế – tổ tiên của ông, người Phúc Kiến đã kiều cư qua lập nghiệp tại Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX. Tại đây, họ Hồng cùng với nhiều họ Trung Hoa khác lập ở Bao Vinh, Thừa Thiên, phố Thanh Hà sau thành làng Minh Hương, và sau đó đều được xem là người Việt Nam. Thân phụ Cung Giũ Nguyên là ông Cung Quang Bào, một Đốc học. Thân mẫu là Nguyễn Phước thị Bút, trưởng nữ quận công Hồng Ngọc và cháu nội Ngài Nguyễn Phước Miên Lịch, An Thành Vương, con út Vua Minh Mạng, có lần làm Nhiếp chánh Thân thần.
Sinh trưởng trong một gia đình nghèo và đông con, học xong trung học tại trường Quốc học Huế những năm 1922-1927, ông phải từ bỏ giấc mộng học trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà Nội để đi làm việc. Ông nói:
– Về vẽ thì tôi đã may mắn gặp hai thầy rất tốt là thầy Tôn Thất Sa và thầy Georges Leloup….
Những bức tranh hiện treo trong phòng khách nhà ông đều do ông vẽ từ bức chân dung của mẹ ông cho đến bức chân dung của ông, của vợ ông…Căn nhà số 60 Hoàng Văn Thụ hiện nay là căn nhà của cha ông mua, ban đầu là nhà tranh và được xây thành nhà gạch từ năm 1929 cho đến bây giờ.
Năm 1928 ông được bổ làm trợ giáo tập sự tại trường Nam tiểu học Nha Trang, nhưng đến đầu năm 1930 bị bãi chức, vì lý do chính trị. Đó là năm đánh dấu khúc quanh cuộc đời của ông. Sau đó ông phiêu lưu vào Sài Gòn, Đà Lạt, Huế, Nha Trang…
– Trong thời gian bốn năm mà tôi làm hơn bảy nghề. Tôi viết báo, viết sách, làm gia sư, làm kế toán cho một hãng sửa xe của người Pháp, làm thư ký cho một đồn điền cao su ở Xuân Lộc, bán hàng, đã có lúc tôi định đi theo gánh cải lương nhưng bị từ chối vì khi nghe tôi ca thử một bài Tứ Đại Oán, nghệ sĩ Năm Châu đã thành thật khuyên tôi nên chuyển nghề khác, tôi cũng đã làm thợ sửa ảnh…
Năm 1936, người cha mất (cuộc đời ông vẫn luôn tiếc là cha ông đã ra đi quá sớm không để cho ông có thì giờ chứng minh ông đã trở lại nối nghiệp thầy giáo). Vì trách nhiệm đối với gia đình, ông về lại Nha Trang và năm 1941 trở lại nghề dạy học. Ông đã dạy các môn Việt văn, Hán văn, La tinh, Pháp văn, Anh văn, Sử địa, Kinh tế học, Triết học, Văn học… ở các trường Kim Yến, Collège de Nha Trang, Võ Tánh, Lê Quý Đôn….
Từ năm 1955-1975, ông làm Hiệu trưởng trường Trung học đệ nhị cấp Lê Quý Đôn, Nha Trang. Từ 1972-1975, Giáo sư thỉnh giảng Viện đại học Cộng đồng Duyên hải, Nha Trang. Từ 1989 đến 1999, ông là Giáo sư thỉnh giảng môn ngôn ngữ và văn chương Pháp tại khoa Pháp văn, Trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang. Ông còn tham gia nhiều công tác xã hội ở Nha Trang, Sài Gòn; đã từng làm Deputy Camp Chief of Gilwel, London, phụ tá Trại trưởng Trại Huấn luyện Hướng đạo Quốc tế, Gilwell, Anh Quốc, và làm Trại trưởng Hướng đạo Việt Nam…
Ông đã viết hàng ngàn bài báo cộng tác với các báo: Đông Pháp thời báo, Sài gòn mới (Sài gòn), Nam Phong (Hà Nội), Đông Dương mới (L’Indochine Nouvelle, Sài gòn), Pháp Việt (France – An Nam), Nhật báo Huế (La Gazette de Huế), Tân văn (Sài gòn), Hội thảo (Symposium, Syracuse), Sách báo nước ngoài (Book Abroad, Oklahoma, Hoa Kỳ), Pháp Á (France-Asie, Sài gòn), Bách Khoa (Sài gòn), Diễn đàn (La Tribune, Sài gòn)….
Năm 1939, ông làm Chủ bút nguyệt san song ngữ Tương lai tạp chí, Nha Trang. Năm 1939–1942, ông làm Chủ bút Nhật báo Châu Á buổi chiều (Le Soir d’Asie, Sài gòn). Từ 1954, ông đảm nhận Chủ bút tuần báo Báo chí viễn Đông (La Presse d’Extrême – Orient, Sài gòn).
Cuộc đời viết văn của ông đánh dấu bằng tác phẩm đầu tay là một truyện ngắn nhan đề là Tình ái mỹ đăng trên tờ Đông Pháp thời báo, Sài gòn năm 1928.
Trong thư mục tác phẩm đã in và chưa in của ông có đến gần trăm cuốn. Có thể kể đến như:
– Về tiếng Việt: Một người vô dụng (Tín Đức thư xã, Sài gòn, 1930); Nhân tình thế thái (tập truyện ngắn, Phổ thông văn xã, Gia Định, 1931); Nợ văn chương (Nhà in Châu Tịnh, Vinh, 1934) ; Những ngày phiêu bạt (ký), Nửa gánh tang bồng, Một chuyến về…
– Về tiếng Pháp: ông được thế giới biết đến nhiều vào những năm 1950 – 1960 với các tác phẩm Le fils de la Balaine (tiểu thuyết, Paris, 1956), Le Domaine Maudit (tiểu thuyết, Fayard, Paris, 1961), Volontés d’existence (France-Asie, Sài gòn 1954)…; riêng Le Boujoum (roman Dallas, Tesax, USA, 2002 – tái bản) ông viết sau này ….
Le fils de la Balaine đã được nhiều nhà phê bình văn học nổi tiếng trong và ngoài nước đánh giá cao. Daniel-Rops, viện sĩ Hàn Lâm Pháp nhận xét: “Với một Cung Giũ Nguyên, có thể cạnh tranh với một Pourrat, một Ramuz, một Giono, một Monique Saint-Hélier…, đó là điều mới lạ”. Le fils de la Balaine được tái bản ở Canada năm 1978 và được Nguyễn Thành Thống dịch sang tiếng Việt với tựa đề Kẻ thừa tự của ông Nam Hải (NXB Văn học, Hà Nội 1995).
Le Domaine Maudit (Đất dữ) cũng được nhiều nhà phê bình chú ý. Nhà văn Võ Hồng đã viết về cuốn sách (đăng trên Bách Khoa, Sài gòn ngày 15-6-1962) như sau: “Văn của tác giả viết tự nhiên mà có nhiều thú vị… Những triết lý nhân sinh cũng được trình bày dưới hình thức đơn giản nhưng thầm kín… Le Domaine Maudit lấy khung cảnh Việt Nam nhưng câu chuyện có thể xảy ra ở bất cứ nước nào có sự tranh chấp giữa các ý thức hệ, nghĩa là giữa những quan niệm khác nhau về hạnh phúc và tình yêu”.
Volontés d’existence (Những ý chí sinh tồn) thuộc về loại tiểu luận gồm ba bài. Bài thứ nhất trình bày căn nguyên giải phóng cá nhân và dân tộc Việt Nam. Bài thứ hai trình bày nền văn chương Việt Nam và bài thứ ba bàn đến nỗi lòng bi đát của Nguyễn Du. Ba bài quy tụ chung quanh một ý chính: những ý chí sinh tồn của con người Việt Nam và dân tộc Việt.
Tác phẩm Le Boujoum, dày 756 trang, một tác phẩm đầy triết lý ông viết từ năm 1976 đến năm 1980 và chính ông đã dịch sang tiếng Việt với tựa đề là Thái Huyền (NXB Đại Nam, California, 1994). Ông viết Le Boujoum để tặng người bạn thân suốt gần nửa thế kỷ của ông là Raoul Serène (đã nói ở trên), mà ông gọi tên là Sếu. Trong lời tựa cuốn sách, ông viết: “Cũng như với những người bạn thân khác, khi xa cách và nhất là trong những năm sau này thiếu những gặp gỡ thường xuyên và cuộc chuyện trò hữu ích, tôi có những bức thư dài cho Sếu và kèm theo thư, cũng có những trang trích các sách tôi đã hoàn thành hay đang soạn thảo, để cho bạn theo dõi đời sống cụ thể của mình và cũng để thăm dò phản ứng của bạn về những tác phẩm mình, sợ thói tự phụ, chủ quan khiến mình có nhận định sai lầm về giá trị của chúng. Tình thân hữu thật sự cho phép, và khuyến khích, những phê phán thẳng thắn, dù cho có khi là tàn nhẫn, không chỉ về công việc và cả về những phương diện khác. Đây không phải là dấu hiệu của sự đố kị ganh ghét, mà là của sự thương yêu thật sự, một ước muốn xây dựng lẫn nhau theo đường dáng đi, hay ít ra cũng tránh cho nhau những ảo giác về bản thân cũng như về sự nghiệp”.
Le Boujoum hay Thái Huyền cũng đã được nhiều nhà phê bình văn học ngoài nước chú ý. Người ta đánh giá: từ Le fils de la Balaine đến Le Boujoum là một khoảng cách lớn, kể về văn phong lẫn chiều sâu tác phẩm.
Cả cuộc đời ông là một sự phấn đấu rèn luyện, tìm và trao tặng tri thức, chủ yếu là tự học và học mãi. Ông nói :
– Đọc sách, đối với tôi, là một lối tránh mệt nhọc, khỏi phấn đấu, vì bẩm sinh yếu đuối. Từ cái bắt buộc, tôi tìm ra thích thú với sách. Tôi đã gặp nhiều may mắn, có cơ hội làm bạn với sách. Về việc cần phải học, tôi lập chí ngay khi tuổi gọi là trưởng thành và bước vào đời. Tôi thích lập kế hoạch, cũng như học sinh cần có dàn bài để viết luận văn. Cần, một phương pháp để học hỏi, về bất cứ môn gì.
Một điều may mắn khác cho việc học hỏi của tôi, là được ngao du đó đây, đến nhiều nước, có dịp biết nhiều thư viện, viện bảo tàng lớn, những nơi thờ phụng nhiều tôn giáo, tiếp xúc với nhiều giới, từ thượng lưu đến giới chai chén dân bụi đời chỉ xài tiếng lóng (argot)….
Bước sang tuổi 97, ông vẫn còn miệt mài làm việc với chiếc máy vi tính mỗi ngày mà không cần người phụ giúp. Hoàn thiện những bản thảo đang dang dở, hệ thống lại toàn bộ tác phẩm, dịch ra tiếng Việt những tác phẩm viết bằng tiếng Pháp… Khối lượng công việc thì đồ sộ mà quỹ thời gian còn quá ít! Thế nhưng, ông nói:
– Không viết nữa thì làm gì! Đời người như một miếng da lừa, mỗi ngày nó teo tóp đi một chút. Dân gian thường nói cá ươn, ươn từ cái đầu. Con người cũng vậy, phải bắt cái đầu nó làm việc đừng để nó hư. Nên sống lạc quan và biết cười.
Nói về việc sống thọ, ông kể câu chuyện vui:
– Tôi đươc biết, theo lời mẹ kể lại sau này, tôi sinh ra không tốt tướng, gầy yếu, thầy thuốc, thầy bói cho biết trước là không thọ. Tôi ngủ hay giật mình vì một tiếng động nhẹ. Nghe theo thầy, mẹ tôi tìm mua một cái “búa thiên lôi” là một miếng nham thạch màu xanh tím, hình lưỡi búa, mẹ làm một bọc cho búa và để dưới cái gối của tôi. Phương thuốc của “thầy” quả là linh nghiệm, từ đó tôi hết giật mình khi ngủ, kể cả những khi có giông tố và sấm sét. Nhưng có điều đáng buồn là đầu tôi mãi mãi bị lép như đầu cá chai. Đó là giá con người thường phải trả. Nhân vô thập toàn, được cái này phải mất cái kia….
Trọn một thế kỷ dành cho các việc tự học, đi, viết và dạy học. Phương châm sống của ông gói gọn trong 4 từ nguyên hanh lợi trinh. Ông giải thích với tôi: “Nguyên là nguồn gốc – bất kỳ một việc gì cũng phải truy tìm cho được nguồn gốc và giải thích câu hỏi tại sao. Hanh là hanh thông – vượt lên những khó khăn; khi gặp khó khăn ta chia vấn đề ra thành những vấn đề nhỏ, từ vấn đề nhỏ chia thành những vấn đề nhỏ nữa và giải quyết từ từ. Lợi là lợi ích, lợi ích của mình phải gắn liền với lợi ích của người khác, những điều viết ra làm sao cho nhiều người trên thế giới đọc được. Trinh là hòa hợp. Hòa hợp ở đây có 3 ý: hòa hợp với thượng tôn, hòa hợp với tha nhân và hòa hợp với chính mình. Trong mỗi con người đều tồn tại ông thiện và ông ác, nhờ thượng tôn và những người xung quanh giúp đỡ để hòa hợp với chính mình”.
Tôi hỏi ông câu hỏi cuối cùng về nhận định của ông khi giới trẻ bây giờ không thích đọc sách? Ông đã trả lời bằng một câu trong Le Boujoum: “Cuộc đời không có chấm dứt, từ không đến có, rồi lại từ có đến không, qua những giai đoạn thành, thịnh, suy hủy, rồi thành, từ khôn đến càn, rồi lại từ càn đến khôn, qua những giai đoạn thiếu âm, thái dương, thái âm, thiếu dương, mà vật lý học cho thấy qua điển hình của vòng Mobius… Một ngày kia người ta sẽ trở lại việc đọc sách”.
Đó là câu nói khẳng định rất tự tin của ông – một người sống trọn một thế kỷ (ông mất ngày 7 tháng 11.2008) có rất nhiều biến động với một cuộc đời sôi nổi và đầy sáng tạo.