“Đời anh hùng”, một tự truyện của Strauss
Richard Strauss soạn Ein Heldenleben (Đời anh hùng) năm 1898 khi bước vào tuổi 34 và đang ở độ sáng tác chín muồi. Dù đây không phải là tác phẩm cuối cùng của ông ở thể loại thơ giao hưởng nhưng nó là tác phẩm cuối cùng trong chuỗi tác phẩm xuất sắc cùng thể loại.
Mười năm trước đó, thơ giao hưởng Don Juan đã giúp Strauss trở thành một đại diện xuất sắc ở lĩnh vực sáng tác cho dàn nhạc.
Trên thực tế Ein Heldenleben không khác gì một tự truyện tổng kết những thành tựu của nhà soạn nhạc tính đến thời điểm ông chuẩn bị chuyển trọng tâm sáng tác từ phòng hòa nhạc tới nhà hát opera. Tác phẩm được ông đề tặng nhạc trưởng người Hà Lan Willem Mengelberg cùng dàn nhạc Concertgebouw ở Amsterdam. Tuy nhiên đích thân Richard Strauss đã chỉ huy dàn nhạc trong lần đầu công diễn tác phẩm vào ngày 3/3/1899 tại Frankfurt.
Trong một bức thư gửi cha (nghệ sĩ kèn horn đáng kính người Munich Franz Strauss) vài tuần lễ sau buổi công diễn đầu tiên tại Frankfurt, Strauss nhấn mạnh chuyện chính ông là người anh hùng chỉ là “một nửa sự thật”. Trong tờ chương trình của buổi công diễn đó, ông viết rằng đề tài của tác phẩm “không phải là một nhân vật thi ca hay lịch sử đơn nhất mà đúng hơn là một ý niệm phổ biến hơn và tự do hơn về chủ nghĩa anh hùng vĩ đại và can trường”. Một vài nhà bình luận ủng hộ sự chối bỏ này của ông và gợi ý rằng Strauss, cũng như Beethoven trong Eroica Symphony, có lẽ đã mang trong tâm trí một lý tưởng phổ quát hay có lẽ là một “vị anh hùng nghệ thuật” cụ thể trong số các bậc tiền bối của mình (như Wagner) song chắc chắn không phải là bản thân ông. Trên thực tế, năm 1898, Strauss từng nhắc tới hình mẫu Beethoven khi ông viết tác phẩm này, rằng bởi vì Eroica đã rơi vào xao lãng nên ông đang soạn bản thơ giao hưởng quy mô lớn chưa từng thấy của mình để “đáp ứng một nhu cầu cấp bách… phải thừa nhận là không có một hành khúc tang lễ song vẫn ở giọng Mi giáng với rất nhiều kèn horn, nhạc cụ luôn là một biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng.” Tuy nhiên, âm nhạc ngoan cường đã chỉ rõ tác giả bản thơ giao hưởng chính là đề tài và Strauss cuối cùng cũng thừa nhận trong một bình luận với nhà văn Romain Rolland rằng ông thấy mình “chẳng kém thú vị hơn Napoleon”. Hành động tự mình chỉ huy buổi công diễn đầu tiên thay vì dành vinh dự đó cho người được đề tặng đáng kính được xem như lời khẳng định thêm nữa về tính chất tự ngợi ca của tác phẩm.
Bất luận người ta có thể cảm nhận thế nào về tất cả những điều trên thì ở thời đại của mình, Ein Heldenleben đại diện cho một tầm cỡ mới mẻ trong việc khai thác các nguồn lực của một dàn nhạc lớn và hiện tại tác phẩm vẫn còn là một cột mốc nổi bật ở khía cạnh này. Ein Heldenleben gồm sáu khúc nhạc liên kết với nhau, mỗi khúc nhạc được phân định rõ bằng âm thanh và có tên gọi riêng:
1. “Der Held” (Người anh hùng)
2. “Des Helden Widersacher” (Kẻ thù của người anh hùng)
3. “Des Helden Gefährtin” (Bầu bạn của người anh hùng)
4. “Des Helden Walstatt” (Chiến trường của người anh hùng)
5. “Des Helden Friedenswerke” (Công cuộc hòa bình của người anh hùng)
6. “Des Helden Weltflucht und Vollendung” (Người anh hùng giã từ thế giới và hoàn thành bổn phận).
Khúc nhạc đầu là bức chân dung Người anh hùng, được giới thiệu mà không có lời tựa, chủ đề chính trải dài 116 ô nhịp và dao động qua ba quãng tám. Các chủ đề phụ đại diện cho tính nhạy cảm, sự thông minh, tham vọng và quyết tâm của người anh hùng.
Trong các thơ giao hưởng trước Ein Heldenleben như Don Juan, Macbeth, Death and Transfiguration (Thần chết và lễ biến hình), Till Eulenspiegel, Thus Spake Zarathustra (Zarathustra đã nói như thế), Don Quixote, Strauss đã sử dụng các tác phẩm văn học làm hình mẫu hoặc (như trong trường hợp Thần chết và lễ biến hình) được người khác diễn đạt “chương trình” trong tác phẩm thành ngôn từ sau khi ông đã soạn xong phần âm nhạc. Till Eulenspiegel là bức chân dung một nhân vật dân gian; Zarathustra là sự đáp trả cho cuốn sách triết học của Nietzsche mà lời lẽ trong đó sau này được Gustav Mahler và Frederick Delius phổ nhạc. |
Với Ein Heldenleben, Strauss từng tuyên bố: “Chẳng cần đến một chương trình người ta cũng cũng đủ biết là có một người anh hùng đang chiến đấu chống lại kẻ thù.” Các kẻ thù của người anh hùng, được mô tả ở khúc nhạc thứ hai, ganh đua với nhau ở mức độ đê tiện và hiểm ác. Chúng được nhận dạng là những kẻ soi mói (flute, “rất the thé và cắn rứt”), những kẻ dèm pha (oboe, “cằn nhằn”), những kẻ than vãn (kèn horn Anh) và những kẻ hay bắt bẻ (tuba). Strauss không chỉ có những nhà phê bình thù địch trong tâm trí, mà như Wagner đã làm trong Die Meistersinger von Nürnberg (Những nhạc sĩ xứ Nürnberg), ông còn chọn ra một trong số đó để lưu ý đặc biệt. Kẻ hay bắt bẻ nhất là bức tranh biếm họa về một nhà phê bình người Munich có cái tên được kèn tuba nhại đi nhại lại: “Doktor Dehring, Doktor Dehring.” Cha của Strauss chú ý tới sự thẳng thắn này và viết cho con trai mình: “Các kẻ thù này, theo ý kiến của cha, đã vi phạm tất cả mọi điều trong âm nhạc. Các kẻ thù hành xử bỉ ổi thì ở dưới mức phẩm giá để ta phải để tâm tới.”
Strauss thừa nhận rằng khúc nhạc Bầu bạn của người anh hùng là bức chân dung vợ mình, ca sĩ giọng soprano Pauline de Ahna. Cô đã hát trong các buổi biểu diễn vở Tristan und Isolde tại Weimar dưới đũa chỉ huy của Strauss năm 1892 và trong buổi công diễn lần đầu vở Guntram, opera đầu tay của Strauss cũng tại Weimar vào tháng 5/1894 – bốn tháng trước đám cưới của họ. Strauss miêu tả cô bằng violin solo. Ông viết cho Romain Rolland: “Cô ấy rất phức tạp, hơi ngang bướng, hơi đỏm dáng, không lúc nào giống lúc nào, thay đổi từng phút một. Cảnh yêu đương giữ vai trò chuẩn bị tình huống kịch về mặt tinh thần và tình cảm để người anh hùng đối mặt với những thách thức sẽ gặp tại khúc nhạc tiếp theo.
Chiến trường của người anh hùng mô tả một cách sinh động trận chiến đấu ở âm vực rộng nhất (tăng cường một số nhóm nhạc cụ ngoài sân khấu), điều vẫn còn là độc nhất vô nhị trong âm nhạc tính tới thời điểm đó. Sau khi trận chiến lắng lại, chủ đề người anh hùng vút lên chiếm ưu thế và chủ đề tuyệt diệu do đội kèn horn thể hiện trích từ thơ giao hưởng Don Juan dẫn vào đoạn tiếp theo, mà có lẽ là đoạn hấp dẫn nhất và là phát hiện lớn nhất của tác phẩm.
Người ta nghe thấy các chủ đề từ các thơ giao hưởng trước đó của Strauss và lied Traum durch die Dämmerung (Mộng mơ lúc chạng vạng) được trích dẫn lại trong khúc nhạc thứ năm – Công cuộc hòa bình của người anh hùng. Các giai điệu lần lượt dẫn vào khúc nhạc cuối cùng.
Người anh hùng giã từ thế giới và hoàn thành bổn phận được mở đầu bằng kèn horn Anh, trình bày những hồi ức về kẻ thù và chiến trường. Tuy nhiên đó là thứ âm nhạc say mê cuồng nhiệt thắng thế và đoạn kết đầy khoa trương vẽ lên phẩm cách và cảnh yên bình mà người anh hùng đã giành được cho chính mình.
Thể loại thơ giao hưởng
Một bản thơ giao hưởng hay một thi phẩm bằng âm thanh từ nhạc cụ (tone poem) là một tác phẩm viết cho dàn nhạc, có một chương nhạc, trong đó một chương trình (programme) nào đó ngoài âm nhạc mang lại cho tác phẩm yếu tố kể chuyện hoặc minh họa. Chương trình này có thể bắt nguồn từ một bài thơ, một cuốn tiểu thuyết, một bức họa hay từ một số nguồn khác.
Thể loại âm nhạc dựa trên những nguồn ngoài âm nhạc thường được biết tới với tên gọi âm nhạc chương trình (programme music), trong khi thể loại âm nhạc không có những liên tưởng khác được biết tới với tên gọi âm nhạc thuần túy (pure music) hay âm nhạc tuyệt đối (absolute music). Một loạt những thi phẩm bằng âm thanh từ nhạc cụ có thể kết hợp với nhau trong một tổ khúc (suite), theo nghĩa của thời kỳ Lãng mạn hơn là nghĩa thời Baroque: “Con thiên Nga vùng Tuonela” (1895) là một bản thơ giao hưởng rút từ tổ khúc Lemminkäinen của Jean Sibelius.
Nhà soạn nhạc Franz Liszt đã sáng tạo thể loại thơ giao hưởng trên quy mô lớn, trong một loạt những tác phẩm âm nhạc một chương được sáng tác từ những năm 1940 và 1950. Liszt đã viết 13 bản thơ giao hưởng, trong đó nổi tiếng nhất có lẽ là bản thơ giao hưởng số 3 – Les Préludes (Những khúc dạo đầu) dựa theo thơ của Alphonse de Lamartine. Bên cạnh những thơ giao hưởng dựa theo những thi phẩm của các thi hào như Lamartine, Hugo (Ce qu’on entend sur la montagne – Tiếng nghe trên núi, Mazeppa), Byron (Tasso: lamento e trionfo- Tasso: Lời than thở và chiến thắng)… Liszt cũng sáng tác thơ giao hưởng dựa trên kịch (Hamlet của Shakespeare) và dựa trên nguồn ngoài âm nhạc khác như hội họa (Du berceau jusqu’au tombeau – Từ chiếc nôi đến nấm mồ).
Những tiền thân gần gũi của những thơ giao hưởng kiểu Liszt là những overture hòa nhạc, những chương viết cho dàn nhạc dành cho sân khấu, nhiều màu sắc và gợi liên tưởng mà được sáng tác để biểu diễn độc lập trong bất cứ một vở opera hay tác phẩm sân khấu nào: ví dụ như Fingal’s Cave của Felix Mendelssohn hay overture Roman Carnival (Ngày hội La Mã) của Hector Berlioz. Một overture độc lập thời kỳ đầu là Der Beherrscher der Geister (“The Ruler of the Spirits” – “Người cai trị những Linh hồn”, 1811) của Carl Maria von Weber, một overture gợi không khí ở mức độ cao mà không kèm một vở opera. Những tác phẩm hòa nhạc này đến lượt mình đã xuất hiện từ những overture của Ludvig van Beethoven chẳng hạn như những overture “Egmont”, “Coriolan” và “Leonore” No. 3, mà trong nội dung âm nhạc của chúng tiên liệu câu chuyện của tác phẩm sân khấu mà chúng giới thiệu (các vở kịch trong trường hợp “Egmont” và “Coriolan”, vở opera Fidelio trong trường hợp “Leonore”). Thậm chí những tác phẩm cho dàn nhạc được minh họa bằng những khúc nhạc theo bộ “cơn bão” mà là một thể loại được thiết lập trở lại với cơn bão mùa hè trong Bốn mùa của Antonio Vivaldi và một vài entr’acte (khúc trung gian, chuyển cảnh) buồn bã giữa các cảnh của opera Pháp thời kỳ Baroque.
Tính tự do của thể loại thơ giao hưởng cho phép những tên gọi khác, chẳng hạn như “tranh âm nhạc” (musical picture), “overture”, “fantasy”… Richard Strauss (người thích thuật ngữ “thi phẩm bằng âm thanh từ nhạc cụ” (tone poem) hơn là “thơ giao hưởng” (symphonic poem) là một trong những nhà soạn nhạc cuối thời kỳ Lãng mạn sáng tác nhiều ở thể loại này, với những tác phẩm bao gồm Don Juan, Till Eulenspiegel, Also sprach Zarathustra (Zarathustra đã nói như thế), Don Quichote và Ein Heldenleben. Strauss đã đặt tiêu đề phụ cho Don Quichote là “Introduction, Theme with Variations, and Finale” (Giới thiệu, Chủ đề với những Biến tấu, và Phần kết) và “Fantastic Variations for Large Orchestra on a Theme of Knightly Character” (Những biến tấu phóng túng cho Dàn nhạc lớn trên Chủ đề Nhân vật hiệp sỹ). Tác phẩm có thể dễ dàng được gọi là một rhapsody với vai trò một thi phẩm bằng âm thanh từ nhạc cụ.
William Lloyd Webber, cha của nhà soạn nhạc kiêm nhà tổ chức biểu diễn Andrew Lloyd Webber, đã sáng tác bản thơ giao hưởng Aurona, tác phẩm đã trải qua kinh nghiệm hồi sinh tính đại chúng trong những năm gần đây. Tuy nhiên một số trong mối quan tâm này có thể bị quy cho sự liên đới của ông với tính đại chúng của những tác phẩm của con trai ông.
Frank Sinatra đã đặt hàng và chỉ đạo album Frank Sinatra Conducts Tone Poems of Color năm 1956. Album đã đề cao những thi phẩm bằng âm thanh từ nhạc cụ được sáng tác bởi tám nhà soạn nhạc đương đại gồm André Previn, Billy May, Nelson Riddle, Gordon Jenkins, Victor Young, Jeff Alexander, Alec Wilder và Elmer Bernstein.
Tối 18 và 19/12, tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia Việt Nam cùng với hai nghệ sĩ khách mời Nhật Bản là Hayashi Nana (Concertmaster) và Hirota Tomoyuki (Oboe) sẽ biểu diễn “Đời anh hùng” dưới sự chỉ huy của nhạc trưởng HONNA Tetsuji. |
Cũng có một số những tác phẩm một chương không viết cho dàn nhạc mà cho hòa tấu thính phòng hoặc nhạc cụ độc tấu, dựa trên một vài nguồn ngoài âm nhạc. Do tính chất phi dàn nhạc của chúng, những tác phẩm đó không được coi là “thơ giao hưởng”, mặc dù về mọi khía cạnh khác ngoài phối khí, chúng tương đồng nhau. Một trong những tác phẩm nối tiếng nhất như vậy là Verklärte Nacht (Đêm rạng rỡ) của Arnold Schoenberg, dựa trên một bài thơ, vốn được viết cho lục tấu đàn dây (mặc dù về sau được chuyển soạn cho hòa tấu quy mô lớn hơn).
Ngọc Anh tổng hợp