Hải đường tăng

Mưa như roi quất vào mặt, lúc lên đến con dốc trên đường đến chùa Phật Tích, Xuyến lảo đảo tưởng chừng không cầm vững tay lái chiếc xe máy. Mưa ràn rụa trên mắt, con đường trước mặt mờ đi, mưa chảy xuyên qua áo mưa, thấm vào đến tận da thịt. Thoáng chốc Xuyến chùn lại. “Đang tạnh ráo sao lại mưa khủng khiếp thế này. Trời không ủng hộ mình. Hay là quay về thôi?”.

Ý nghĩ quay về vừa hé ra thì bất giác bàn tay Xuyến lại tăng ga cho xe lao vụt tới. Hai mươi năm trước, cũng vì ngần ngừ đúng vào giây phút phải quyết định mà mình đã vuột mất ông ta. Lần này… không bao giờ như thế nữa. Trời cứ mưa! Cơn mưa này nói lên điềm báo gì? Trời không ủng hộ mình, hay trời không ủng hộ ông ấy?
Trời sập tối, trong chùa Phật Tích các tăng sinh thắp những ngọn đèn chai dưới mái hiên rộng. Bên ngoài, mưa vẫn trắng dày. Không biết đêm thơ tối nay có được mấy người đến, với thời tiết này? Chú tiểu Ngộ quay vào hỏi sư ông Viên Tâm:
– Bạch thầy, hay là con dẹp bớt ghế đi. Sợ nhiều ghế trống quá thì không đẹp.
Sư ông đang chăm chú viết một câu thơ lên mảnh giấy bằng lối chữ thư pháp. Không ngửng đầu lên, người bảo:
– Con cứ thư thả. Chưa đến giờ mà.
Đêm nay sư Viên Tâm tổ chức đêm thơ Thiền như thực hiện một lời nguyện ước trước khi nhận một niềm vui lớn: Hai hôm nữa ông sẽ được phong Thượng tọa.
Nhưng trời mưa. Mưa và lạnh. Tiểu Ngộ an ủi thầy:
– Thầy ạ, con nghe nói tổ chức cái gì mà gặp mưa là hên lắm đó…
Sư mỉm cười. Thật trẻ con. Dân gian vẫn có niềm tin rằng đám cưới nào gặp trời mưa thì sau này sẽ giàu có hạnh phúc. Nhưng đêm thơ này đâu phải đám cưới.
Trong sân lác đác người. Những chiếc xe máy, xe đạp xuyên màn mưa, những chiếc áo mưa dơi sùm sụp, rồi những hình hài lướt thướt bước vào hiên chùa, tóc ướt bết trên trán, miệng cười tươi như hoa. Nhiều người đem hoa đến, thật nhiều hoa hồng và có cả một bó hoa hải đường đỏ thắm.
Một tăng sinh cầm bó hoa, phân vân: “Bạch thầy, con nghe người ta nói hải đường có sắc không hương, hoa hải đường không cúng trên bàn Phật?”. Sư Viên Tâm mỉm cười: “Trong tự tính của hoa, chẳng có hoa nào là xấu. Chỉ xấu vì ý tưởng phân biệt của con người thôi!” Chú tiểu cắm hoa rồi chạy đi pha trà, dắt thêm ghế. Như cảm lòng người, mưa ngớt dần rồi tạnh hẳn. Chỉ tiếng gió hun hút qua đồng trống quanh chùa. Chốc lát, một khối củi được chất theo hình kim tự tháp trước thềm, ngọn lửa lớn rực lên, tỏa một quầng sáng ấm áp.
Đúng lúc đó chiếc xe của người đàn bà xé màn mưa lao vào cổng chùa. Tiếng máy nổ hối hả vang lên khá to, nhưng lúc bấy giờ trời đã tối mịt, không ai còn thấy gì bên ngoài cái quầng lửa rực rỡ tỏa ra từ đống củi. Sư Viên Tâm  bước ra mở đầu đêm thơ, bao giờ cũng vậy, trước khi ngâm thơ mình ông cũng ngâm mấy câu quen thuộc: “Ngày xưa có gã từ quan, lên non tìm động hoa vàng ngủ say…”.(1)
***
Những người cuối cùng đã về mà ngọn lửa vẫn chưa tàn. Tiễn khách xong, chú tiểu quay vào, vẻ mặt tươi rói hân hoan. “Thầy ơi, con rưới nước dập lửa đi nhé”.
Lửa đang dần lụn xuống, nhưng hào quang của nó còn đẹp quá. Những hòn than lớn, đỏ thắm, trong suốt như hồng ngọc. Bất giác sư Viên Tâm có cảm giác ngọn lửa này là một sinh vật đang sống, một đời sống dù ngắn ngủi nhưng rất đẹp, thật khó đành lòng dập tắt. “Con cứ đi ngủ đi, thầy ngồi một lát”. Chú tiểu hiểu ý thầy. “Bạch thầy, thầy cứ nghỉ trước. Con còn phải học bài thêm một chút, con còn ngồi đây đến nửa đêm”.
Sư Viên Tâm quay về thiền phòng, lòng hân hoan còn hơn cả chú tiểu học trò dù hai mươi năm tu tập đã giúp ông luôn giữ phong thái điềm tĩnh. Niềm vui này là món quà vô giá từ bạn thơ và đạo hữu: xuyên qua cơn mưa như thác và đoạn đường chốc lở, họ đã đến, vì ông. Đẩy cửa thiền phòng, ông bước vào. Mưa tạnh rồi, giờ đây ngoài trời đã có chút Trăng nhạt. Sư Viên Tâm đến bên giường, quờ tay xuống gối định tìm diêm châm nến.
Tay ông chạm phải một vật gì mềm mại và rất ấm. Dù đã luyện được phong thái điềm tĩnh thường trực, ông không khỏi giật bắn người.
Ông rụt tay lại như chạm phải lửa, nhưng lửa đã từ tay ông cháy bùng rất nhanh trong từng tế bào cơ thể. Một bàn tay mềm mại từ trong đống chăn đưa ra giữ lấy tay ông. “Đừng lên tiếng. Xuyến đây. Ông có còn nhớ Xuyến là ai không?”.
Một mùi thơm nồng dịu phảng phất, người đàn bà đã ngồi dậy, tấm chăn rơi xuống, cùng lúc trên trời mặt Trăng đang chui ra khỏi mây đen. Một vạt sáng trắng nhờ hắt qua cửa sổ làm vị sư nhận ra người quen cũ.
Xuyến. Nàng ở đó, trên giường thiền, tấm thân không một mảnh vải che.
Sư Viên Tâm ngây người, miệng cứng lại, ông muốn gọi người đến giúp mình nhưng lưỡi ông không sao nhúc nhích nổi. Trong khi đó, lửa cứ sôi lên, càng lúc càng hun đốt cơ thể ông.
Một vị thiền sư, vẫn là một người đàn ông. Xuyến đã nghĩ vậy, và giờ này nàng biết mình đúng.
Lúc nào mình cũng dự đoán đúng, vậy mà sao cách đây hai mươi năm mình lại để vuột mất ông ta? Xuyến cảm thấy sự tiếc hận như một mũi dao đâm vào tim mình, đau nhói.
Ánh trăng càng lúc càng sáng hơn, hỗn hợp trắng nhờ bao quanh thân thể Xuyến giờ đây đã thành một khối sáng trong trẻo cho thấy những đường cong trên ngực và hông nàng. Một chút trăng trắng bạc đậu lại và ngời lên nơi lỗ rốn sâu mịn và hai núm vú thon gọn ửng hồng…
Hai mươi năm trước mình đã để mất ông, nhưng giờ này, nhất định ông phải thuộc về mình, dù chỉ là trong khoảnh khắc thôi.
Nhìn khuôn mặt cứng đờ của nhà sư, Xuyến biết mình sẽ thắng. Ba mươi tám tuổi, thân thể nàng đang ở độ chín sung mãn nhất. Một quả táo thơm chín đỏ ngay giữa giường thiền. Nếu người đàn ông chưa dám đặt tay lên quả táo, chỉ là vì ông ta còn sợ thôi – Nỗi sợ tích lũy từ sự kiêng khem, đè nén của cuộc sống tu hành đã hai mươi năm. “Đừng sợ”, Xuyến thì thầm dỗ dành. “Không ai thấy chúng ta đâu”.
Đúng vậy. Thiền phòng của sư Viên Tâm nằm phía Tây hậu điện, khuất và yên tĩnh, cách khá xa nhà ở của tăng chúng. Phòng này gần phòng của sư trụ trì , nhưng sư trụ trì đang vân du xứ Phật chưa về. Chiếc Attila, Xuyến đã khóa và giấu trong một bụi rậm trước khi lẻn vào đây.  Giờ này, trong thiền phòng xảy ra chuyện gì cũng chỉ có trời biết mà thôi. Kế hoạch của Xuyến xem ra thật hoàn hảo. Táo tợn và tỉnh táo. Hai mươi năm trước, nàng nhí nhảnh, đỏng đảnh, và rất nhút nhát, khác hẳn bây giờ.
Chính cảm nhận về sự khác biệt đó làm nhà sư chợt trấn tĩnh lại, khuôn mặt đỏ nhừ đang cúi gằm xuống đất của ông ngẩng lên. Thân thể đàn bà vẫn ngời ngời trước mặt ông, những đường cong chuẩn mực và khêu gợi dưới ánh trăng. Nhưng ông vụt nhận biết thật ra trong thân thể này không có sức nóng, nó không hàm chứa sự khao khát của tình yêu, thậm chí cũng không có ma lực của thèm khát nhục dục. Nó đang là phương tiện lạnh lùng của một thứ lý trí lạnh lẽo. Chốc lát, lửa bỗng nguội đi trong cơ thể người của ông. Cơ thể ông bây giờ nôn nao như cảm giác của người ăn chay trường bỗng ngửi thấy mùi tanh của cá thịt.
“Mô Phật”; Nhà sư nói, giọng bình thản. “Xin bà ra khỏi thiền phòng. Xin đừng làm ô uế danh dự của bần tăng… Và cả của bà nữa”.
Xuyến  hụt hẫng. Nàng cười mũi, giọng đanh lại:
“Ông cũng nghĩ đến danh dự của tôi nữa à? Không, tôi không lầm, bao giờ ông cũng chỉ nghĩ đến ông thôi. Tôi hiểu rồi: hai hôm nữa ông sẽ thành Thượng tọa. Tương lai sáng sủa quá. Ông phải trong sạch… Vì ông sợ!
Nhà sư quay mình về phía cửa phòng:
– Xin bà mặc áo vào và bước ra, đừng để bần tăng phải tri hô. Đến lúc đó thì bà thật sẽ chẳng ra làm sao.
Nói dứt lời, sư Viên Tâm từ từ ngồi xuống sàn, chắp tay trong tư thế thiền định, lưng xoay về phía Xuyến.
Xuyến không đứng dậy mặc áo mà ngả người thoải mái trên giường, cười khanh khách như thách thức:
– Em chắc là ông đủ thông minh để không tri hô. Ai cũng biết ông đã về phòng cách đây nửa giờ.
Đúng. Đó cũng là điều nhà sư vừa nghĩ tới. Dù là người xuất gia, không phải người trong chùa ai cũng có đủ từ tâm và tin yêu. Họ sẽ hỏi ông đã làm gì trong nửa giờ. Cái lúc có thể tri hô đã qua rồi, lúc đó ông đang bị những xung động chế ngự.
Tiếng rủ rỉ của Xuyến càng lúc càng gần hơn, hơi thở của nàng đang ở trên gáy ông. “Ông à, chuyện đời nhiều khi trớ trêu như vậy đó. Nếu ông đuổi em ra giờ này thì chắc chắn ông sẽ bị nghi ngờ. Nhưng nếu em ở lại đây cả đêm và sáng mai trà trộn vào khách vãn chùa để ra về thì chẳng ai biết cả… Thanh danh của ông sẽ sáng như mặt Trăng trên kia vậy…” Xuyến nói thủ thỉ bên tai nhà sư với cái giọng ranh mãnh và ngạo nghễ mà hai mươi năm trước ông chưa hề nghe.
“Điều ấy chứng tỏ rằng hai mươi năm qua, cuộc sống của nàng chẳng êm đềm chút nào”. Thật lạ, giữa lúc này ý nghĩ đó lại đến trong tâm trí ông. Ông nhớ khi ông bỏ đi, Xuyến đã đi tìm, đã khóc, trận khóc chẳng làm lay chuyển được lòng ông dù còn tầm tã hơn cả cơn mưa chiều nay…
Lúc này, hình ảnh ấy cũng đang trở lại trong tâm trí Xuyến. Tội nghiệp cho mình. Hai mươi năm trước, mình mới mười tám tuổi, vừa xong lễ ăn hỏi linh đình thì chú rể thoái hôn. Ngu ngơ quá chừng, mình chỉ biết khóc và khóc. Bây giờ, không thế nữa. Bây giờ, tấn công và đốn ngã. Như chém một cây cổ thụ bằng một thanh kiếm sắc.
– “Xin bà nguôi lòng”. Sư Viên Tâm nói. “Trong quá khứ chúng ta đã không có duyên, giờ này xin đừng tạo nghiệp nữa”.
“Không có duyên? Em và ông vốn là thành vợ chồng”. Những lời ngọt ngào của Xuyến thật tương phản với cái giọng chua như giấm mà nàng đang nói. Trong lúc tìm cách vuốt ve dỗ dành nhà sư, tim nàng đang rộn lên vì thống hận. Ông bỏ đi mất tăm. Gia tộc Xuyến mất mặt. Chưa đầy nửa năm, Xuyến lấy chồng. Cha mẹ nôn nóng muốn gả cho yên, mà Xuyến cũng muốn có chồng để khỏi cúi gầm mặt trong những đám đông. Những ngày tháng tiếp theo thật  đáng nguyền rủa, với hồi ức về người chồng già hơn nàng hai mươi tuổi, về thói gia trưởng, nghiện rượu, ích kỷ, về những áp phe mà hắn đã lao vào và lôi nàng vào theo, rồi phá sản, ly hôn, cái chết của đứa con  và cuộc vỡ nợ cuối cùng… Xuyến nhiều lần mua cả tá thuốc ngủ, lúc nhét chỗ này lúc nhét chỗ kia, nàng đã quen với ý tưởng về cái chết.
Giữa lúc đó, nàng nghe nói về đêm thơ ở chùa Phật Tích. Sư Viên Tâm sắp thăng Thượng tọa. Ông ta muốn thành Phật, để ta đi xuống địa ngục một mình hay sao. Xuyến cười gằn. Một ý nghĩ điên cuồng lóe lên. Với một người sắp chết , chẳng có gì là không làm được.
Giờ đây, nàng đang nén tiếng cười gằn đó trong khi vòng tay ra phía trước, ôm lấy nhà sư. Một thân thể gầy nhưng hoàn toàn mạnh khỏe và tinh khiết. Lẽ ra thân thể này là của nàng từ lâu rồi.
“Quay lại đi ông. Đêm ngắn lắm”.
Nhà sư vẫn lặng yên thiền định, mắt nhắm nghiền.
Cho ông ấy tha hồ mà nhắm mắt. Ta sẽ làm cho ông ấy có mắt ở sau lưng. Xuyến áp lồng ngực dày ấm vào sau lớp áo vàng tu sĩ. Cho đến giờ này ông ấy vẫn im lặng. Im lặng là thỏa hiệp, là đồng ý. Xuyến níu lấy vai ông, cố kéo về phía mình.
Ông ta đâu có đường lui nữa. Cũng như nàng thôi.
Nhà sư quay lại. Hai tay đang chắp trươc ngực buông ra.
***
Nhà sư bước về phía mé sau, nơi có cái cửa nhỏ trổ ra dưới một mái tranh. Chùa Phật Tích nằm trên sườn đồi dốc đứng. Khuất hẳn với khu nhà tăng và dãy trái phòng phía bên kia, mái hiên này hoàn toàn hoang vắng, nằm lơ lửng trên một thung lũng giữa hai ngọn núi Kim Oanh và Thiên Mã phía sau chùa. Xa xa là núi Trượng, đen sẫm trong đêm.
Gió lạnh. Không thể phơi thân ngoài trời đêm, Xuyến mặc vội áo quần, những ngấn nước mưa còn lại trên y phục làm nàng cảm thấy xót trên da thịt.
Trên chiếc ghế tre quay về phía núi, Xuyến hứng hết ánh trăng. Trước mặt nàng, nhà sư ngồi sấp bóng, mặt đầy những khoảng tối. Xuyến thấy rất rõ: cái bao lan này mở ra trên vực sâu, bên dưới chỉ có những lùm cây bụi cỏ đen ngòm bất động. Bên tai nàng cất lên giọng nói của nhà sư:
– Chỗ này ngày trước, sư cụ tôi đặt tên là hiên Tĩnh Tâm. Cứ mỗi lần tâm tư náo động, tôi lại đến đây…
Thế ư. Hai mươi năm qua, tâm tư tôi vẫn chưa hề yên tĩnh. Xuyến nghĩ.
Nhà sư cúi nhặt một hòn sỏi dưới chân, khẽ vung tay. Hòn sỏi tung lên rồi rơi thẳng xuống, mất hút dưới vực.
Sinh mệnh con người cũng nhỏ nhoi như vậy đấy, sư Viên Tâm lẩm bẩm. Xuyến bất giác thấy lạnh ở sống lưng. “Tại sao ông lại đưa tôi ra đây?”. Nàng hỏi giọng lạc đi.
Dù là sư, người này cũng là một người đàn ông. Xuyến sực nhớ ra: cái hấp dẫn nhất với đàn ông là quyền lực và danh vọng. Những người đàn ông lúc nào cũng nghĩ đến bản thân mình trước. Mình đã đẩy ông ấy đến đường cùng. Hai ngày trước khi được thăng Thượng tọa. Một người đàn bà xuất hiện trong thiền phòng. Đầy đủ những điều kiện để ngày mai ông ta bị banh xác dưới móng vuốt của dư luận. Thân bại danh liệt. Không thể đuổi mình ra bằng cửa chính. Cũng chẳng có cửa sau. Có thể nào… cách giải quyết duy nhất là vực sâu dưới chân hai người?
Xuyến nhìn xuống. Bên dưới những lùm cỏ và bèo là những khoảng nước nước lấp lánh. Có một dòng suối hay con lạch gì đó dưới kia. Đêm nay nếu nàng rơi xuống đây, cỏ trùm phủ lên nàng, nước có thể sẽ đưa nàng đi, sẽ chẳng còn ai biết nàng đã vào đây nữa. Xuyến thốt lên:
– Ông định làm gì tôi?
Nhà sư nhìn nàng. Mặt ông đầy bóng tối.
– Bà sợ à? Lúc nãy bà vừa nói không còn gì để mất.
Bàn tay gầy và rắn chắc của nhà sư đang nắm lấy vai Xuyến, đưa nàng đến sát vành bao lan bằng tre, những sợi thừng lỏng lẻo dùng làm tay vịn đang đu đưa, đu đưa. Vâng, đúng vậy. Nàng không muốn sống nữa. Nhưng lúc này… Độ cao đang làm nàng chóng mặt. Nàng run. Giọng nhà sư vẫn đều đều:
– Bà thấy đấy, cũng chỉ vì  bà đã đưa tôi đến đường cùng.
Mồ hôi Xuyến chảy ròng ròng theo sống lưng.“Và bà sẽ thông cảm cho tôi – Nhà sư tiếp tục – Vì chuyện này hoàn toàn là do bà gây nên”.
Do mình gây nên? Hai mươi năm trước, chính ông đã đưa tôi vào chân tường. Ông đã đạp lên cuộc đời tôi để đi vào cõi Phật.
– Đêm nay, bà đã đưa cả hai chúng ta vào một tình thế không lối thoát. Cho nên, tôi và bà, chỉ có một người tồn tại được thôi…
“…”
“Nghĩa là, nếu bà không nhảy xuống con vực này, thì chính tôi phải nhảy xuống đó.
“…”
Sư Viên Tâm buông tay Xuyến ra, ngồi xuống ghế và… từ từ  pha một ấm trà.
“Bây giờ bà hãy kể hết tội của tôi và tôi cũng kể hết tội của bà. Mỗi chén trà là một tội. Người nào dừng trước là thua cuộc. Bà hiểu chứ?”
Xuyến kể trước. Chén trà ấm làm nàng tỉnh lại. Nhưng vừa mở lời, những nỗi đau khổ dồn nén trong lòng vụt hiện lên, nàng òa khóc.
Dường như Xuyến không thể dừng lời để cho ông được nói nữa, nàng kể và kể, nỗi tủi nhục của người con gái bị bỏ rơi, sự hất hủi của cha mẹ, rồi người chồng ích kỷ và nhỏ nhen , người chồng cách đây chín năm trong cuộc ly hôn đã dùng chiếc đũa để đo trong khi chia một chai mật. Rồi những lần bị lừa đảo, rồi mất mát, tan vỡ đến tận cùng… Xuyến kể mãi đến gần sáng mới hụt hơi.
Mặt trăng đã chuyển về phía đông, khuôn mặt sư Viên Tâm giờ đây sáng lên, Xuyến thấy rõ ánh mắt hiền hậu đang chăm chú lắng nghe. Mắt nàng sưng đỏ, nhưng lòng nàng bỗng thấy nhẹ đi. Có một người đang lắng nghe nàng. Xuyến kể tiếp đến những viên thuốc ngủ và ý tưởng trả thù rồi chết…
Quả thật chẳng còn gì để nói thêm nữa. Nàng ngậm đôi môi khan: trà trong bình đã cạn.
Đến lượt nhà sư.
Nhưng sư Viên Tâm chỉ mỉm cười. Thật ra đêm qua, trong lúc tập trung thiền định với đôi tay chắp lại, ông đã không nghĩ đến việc làm sao gỡ mình ra khỏi thế bí, mà nghĩ làm thế nào để cứu chữa cái tâm hồn què quặt đã đến với ông trong đêm này.
Giờ đây, nàng đã biết sợ trước vực sâu, và đã trút được hết lửa bỏng trong lòng nàng. Lúc đến đây, nàng nghĩ không có gì để mất. Bây giờ nàng biết quý sinh mạng mình. Lửa hận dịu rồi thì tâm hồn mới phẳng lặng như cánh đồng êm ả để chờ gieo những hạt giống mới.
Nhà sư bắt đầu kể những câu chuyện Phật mà ông đã đọc. Những câu chuyện hai mươi năm trước đã giúp ông phát hiện ra con đường của chính mình…

Trời sắp sáng. Sư Viên Tâm mở rộng cửa thiền phòng. Xuyến vật vã, bứt tóc: “Bạch thầy, con đã làm hại thầy”.
Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình. Lời kinh Phật vang lên trong ông. Một hạt mầm  vô tình gieo từ hai mươi năm giờ đã thành cây đắng trái độc. Không tránh khỏi. Nghiệp đã khởi, hãy để cho nghiệp đi đến cùng rồi mới có thể sánh vai với trời xanh mây trắng.
Xuyến bước đi . Nàng co rúm lại khi bước qua trước cặp mắt của những tăng sinh đang quét lá trong sân chùa, không kịp hiểu rằng giờ đây nàng biết sợ, biết hối tiếc, biết ngượng là bởi vì trong tâm hồn nàng sự sống đang trở lại.
***
Sư Viên Tâm không thành Thượng tọa. Trở về từ đất Phật, sư trụ trì làm quà cho tăng chúng trong chùa mỗi người một chiếc lá bồ đề . Ngài cũng ghé thăm phòng sư Viên Tâm. Không có lời lẽ nào đả động đến câu chuyện đồn đại đang râm ran, hòa thượng uống trà, thăm hỏi rồi bước  ra , để lại một cành hoa hải đường trên tấm bồ đoàn lót vải cũ sờn.
Cúi nhặt cành hoa, trên môi nhà sư phảng phất nụ cười. Kéo chiếc tay nải đã gói sẵn, nhà sư đặt cành hoa vào, đứng dậy, bước đi.
Tiểu Ngộ chạy theo, níu lấy áo sư Viên Tâm, nức nở:
– Thầy ơi, sao thầy không minh oan ?
Sư Viên Tâm xoa nhẹ mái tóc trái đào của chú bé. “Vì chỉ có mặt Trăng làm chứng cho ta, mà Trăng không biết nói”.
Mười năm sau trên núi Trượng phía Nam chùa Phật Tích có một ngôi chùa nhỏ sâu trong rừng bạch đàn. Một vị sư đã tự tay đốn từng cây gỗ dựng nên ngôi chùa này. Mỗi mùa xuân khách hành hương đến thăm càng ngày càng đông, bởi lời truyền tụng về một nhà sư mà ai được đến trong tầm mắt ông đều cảm thấy như được một vầng sáng ấm áp và tinh khiết bao phủ quanh mình, vầng sáng của an lạc. Nhà sư đặt tên cho ngôi chùa trong núi là Hải Đường Am – Nhà Hải Đường. Nhưng khi đọc những chữ Hán viết thảo rất đẹp trên tấm bảng gỗ thông ngoài cổng, khách thập phương không biết là tên một loài hoa, mà cứ tưởng Đường là nhà và Hải là biển rộng.
Bởi đó chính là cảm giác của mỗi người khi đến chùa này.
Có một ngôi nhà của biển trên núi cao.
——-
(1)Thơ Phạm Thiên Thư

Chú thích minh họa: … trong quá khứ chúng ta đã không có duyên, giờ này xin đừng tạo nghiệp nữa…

Trần Thùy Mai

Tác giả