Hành trình tư tưởng của Tolstoi nhìn từ hôm nay (Kỳ II)

Tolstoi không ngần ngại thể hiện sự cực đoan trong những thể loại diễn ngôn phi nghệ thuật. Và sự lạm dụng ấy, trong trường hợp Tolstoi, lại đem đến những hiệu quả bền vững tuy không ngay lập tức. Cái trực giác, cái linh giác nghệ sĩ đã giúp nhà tư tưởng Tolstoi nắm bắt không sai lầm những vấn đề mới chớm nở trong xã hội thời ấy nhưng sẽ trở thành những vấn nạn của xã hội ngày nay.

Nếu tìm người khai mào cho khuynh hướng, thậm chí truyền thống nghiệt ngã ái mộ Tolstoi – nghệ sĩ và không chấp nhận Tolstoi – nhà tư tưởng, thì người ấy chắc là Ivan Sergeevich Turgenev (1818-1883). Văn hào này, nhiều hơn Tolstoi mười tuổi và đã nâng đỡ cổ vũ những bước đi đầu tiên của ông trong văn học, suốt ba thập niên quan hệ một mực khuyến dụ Tolstoi cống hiến toàn bộ cuộc đời, tất cả mọi sức lực phong phú được trời phú bẩm cho sự nghiệp văn chương và không làm gì khác ngoài sáng tác văn học.

Ngoài sự không chia sẻ nhiều tư tưởng tâm huyết của Tolstoi, chắc Turgenev còn đinh ninh rằng tài văn như ở Tolstoi thì có một không hai, chứ còn những tư tưởng mà Tolstoi trực tiếp phát biểu, nhiều người khác cũng có thể nói ra, mà còn thuyết phục hơn, hay hơn, “có nghề” hơn. Cho nên ông cứ khuyên hoài Tolstoi hãy là văn sĩ chuyên nghiệp và một tháng trước khi qua đời còn khẩn thiết kêu gọi người bạn của mình, “nhà văn vĩ đại của đất Nga”, trở về với hoạt động văn học, chớ sa lầy trong hoạt động chính luận và truyền giáo.

Vào cuối năm 1857, hồi hai người còn chơi thân với nhau, không hài lòng nhận thấy ở người bạn trẻ của mình một sự thiếu tập trung trong các mối quan tâm, một sự thiếu ý thức về thiên chức đích thực của mình, Turgenev viết cho Tolstoi: “… dù có nát óc đến đâu, tôi vẫn không thể nghĩ ra được, anh là cái gì nếu không phải là người viết văn: một sĩ quan? một điền chủ? một triết gia? nhà sáng lập một học thuyết tôn giáo mới? một viên chức? một doanh nhân? Xin anh dẫn dắt tôi ra khỏi sự khó khăn này và nói cho biết, giả định nào là đúng.”

Turgenev hỏi nửa đùa nửa thật mà không biết rằng ông đã nói trúng “tim đen” của Tolstoi. Trong nhật ký của Tolstoi, vào những ngày đầu tháng Ba 1855, ta đọc: “Hôm qua, câu chuyện về thần thánh và đức tin đã khơi lên trong tôi một ý tưởng vĩ đại, to lớn vô cùng mà tôi cảm thấy mình có thể cống hiến cả đời cho sự thực hiện nó. Ý tưởng ấy là – sáng lập một tôn giáo mới, phù hợp với sự phát triển của nhân loại, tôn giáo của Kitô, nhưng được tẩy rửa khỏi mọi thứ mê tín và bí ẩn, một tôn giáo thực tiễn, không hứa hẹn một hạnh phúc mai sau, mà cho hạnh phúc trên cõi trần…”

Trong nhật ký của mình, được viết suốt đời, Tolstoi sẽ không bao giờ dùng những từ ngữ to tát và long trọng như thế khi ông nói về những ý đồ sáng tác hay những thành phẩm văn chương của mình, cho dù đó có là “Chiến tranh và hòa bình”, hay “Anna Karenina”, hay “Phục sinh”. Và đối chiếu những dòng chữ thời hoa niên này với những gì mà nhà thuyết giáo và thầy đời Tolstoi sẽ viết và nói sau này, không thể không nhận ra rằng, thứ nhất, hạt nhân của toàn bộ học thuyết đạo đức – tôn giáo của Tolstoi đã được gói gọn ở đây, và thứ hai, như một con người, Tolstoi đã trung thành với mình, với những khát vọng thời trai trẻ của mình – điều mà ông không ngớt căn dặn các thế hệ trẻ bước vào đời muộn hơn ông.

Tolstoi đã trung thành với mình, đã cố gắng đến cùng thực hiện những gì mà ông ấp ủ từ thời niên thiếu, và chỉ có một, chứ không hai Tolstoi cần được tri ngộ như là một thực thể và chính thể, cho dù việc này có khó khăn đến đâu. Nếu quả là nhân loại còn phải trưởng thành để tiếp nhận thế giới tư tưởng của Tolstoi thì cũng rất có thể là thế giới nghệ thuật của Tolstoi cũng đang chờ đợi một sự phát hiện lại, nhận chân lại, như thế. Giữa di sản văn học và di sản tư tưởng của Tolstoi có quan hệ hữu cơ, không thể phá vỡ và không thể coi nhẹ, chứ chưa nói làm lơ, và sẽ là kém bổ ích chọn nghiên cứu chỉ Tolstoi – nghệ sĩ, hoặc chỉ Tolstoi – nhà tư tưởng. Sự thông hiểu tư tưởng của Tolstoi giúp sức cho sự thấu thị thế giới nghệ thuật của ông, và ngược lại, trực giác nghệ sĩ của ông giúp ta giải thích nhiều tư tưởng anh minh của ông mà chỉ bây giờ, một thế kỷ sau khi ông qua đời, mới được công nhận. Xin đơn cử hai thí dụ, thí dụ thứ nhất lấy từ tiểu thuyết – sử thi “Chiến tranh và hòa bình” (tập 3, phần 2, chương XXIV – XXV).

Pier Bezukhov và Andrei Bolkonski, hai nhân vật chính của tiểu thuyết, gặp nhau trên cánh đồng Borodino trong đêm trước ngày diễn ra trận đánh lịch sử giữa quân đội Nga và đoàn quân của Napoléon tấn công nước Nga. Pier chứng kiến tinh thần chiến đấu và quyết tâm chiến thắng toát ra từ mọi lời nói và cử chỉ của các binh sĩ Nga, đặc biệt từ người bạn tâm giao của mình – công tước Andrei. Tác giả viết về não trạng của Pier: “Câu hỏi cứ làm cho chàng bận tâm hoài từ cái lúc xuống dốc Mozhaisk, bây giờ thì chàng thấy được giải đáp thật minh bạch, dứt khoát. Bây giờ thì chàng đã hiểu được hết ý nghĩa của cuộc chiến tranh này và của trận đánh sắp diễn ra. Tất cả những gì chàng thấy hôm đó, những khuôn mặt nghiêm nghị và trầm ngâm đã thoáng qua trước mắt chàng, bây giờ như được một ánh sáng mới rọi vào. Chàng đã hiểu được cái nhiệt khí âm ỷ, như các nhà vật lý học nói, của tinh thần ái quốc đang sống trong tất cả những người ấy, nó đã giải thích cho chàng vì sao họ lại sẵn sàng đón cái chết một cách bình thản gần như nhẹ dạ như vậy”. Andrei Bolkonski giải thích cho Pier: đây là cuộc chiến tranh giữ nước giữ nhà, vì thế nó nhất định thắng lợi: “Mười vạn quân Nga sáp chiến với mười vạn quân Pháp, đạo quân nào chiến đấu hăng hái hơn, không ngại hi sinh hơn thì đạo quân ấy sẽ thắng. Muốn xảy ra gì thì gì, ngày mai chúng ta sẽ chiến thắng. Phải, muốn gì thì gì, ngày mai chúng ta cũng sẽ thắng.” Tất cả đều hòa điệu, đều ăn khớp, hào khí của sử thi là rõ ràng. Nhưng hai trang sau, về cuối cuộc đối thoại, cũng nhân vật ấy lại nói khác hẳn: “… ngày mai, người ta sẽ mặt giáp mặt để chém giết nhau, sẽ tàn sát và làm tàn phế hàng vạn người, rồi sau đó sẽ làm lễ tạ ơn Chúa, nhờ Chúa phù hộ mà họ đã giết được thật nhiều người (mà con số đó họ sẽ còn thổi phồng lên), và sẽ tuyên bố chiến thắng, cho rằng càng giết được nhiều người thì công trạng càng to. Không biết Chúa ở trên ấy nhìn và nghe thấy thế nào!…”

Tại sao lại có sự tiền hậu bất nhất như thế, và quan trọng hơn sự tuồng như tự phủ định ấy, sự cào bằng, đổ đồng người bị xâm lược với kẻ xâm lược, sự hạ thấp cái vinh quang của người chiến thắng trong cuộc chiến đấu rõ ràng chính nghĩa? Lẽ nào tác giả tiểu thuyết không ý thức được rằng, đặt những lời như thế vào miệng Andrei Bolkonski, ông làm điều trái ngược với những gì mà người đọc đang chờ tìm thấy ở tiểu thuyết của ông? Còn đâu âm hưởng của sử thi anh hùng, sử thi đánh giặc cứu nước? Còn đâu cấu trúc thuần toàn, nhất khối của nhân vật sử thi, hấp dẫn đến thế đối với độc giả đại chúng? Tất cả trở nên rối rắm, khó hiểu, khó đồng cảm. Nhưng tất cả đều nằm trong ý đồ của tác giả. Trong ý đồ ấy không có sự tiền hậu bất nhất, mà có sự kết hợp từ đầu đến cuối hai điểm nhìn, hay nói đúng hơn hai nhãn thức, một nhãn thức hạn hẹp hơn, tạm gọi là nhãn thức “địa giới”, tiếp giáp phức tạp với một nhãn thức khác, cao rộng hơn, tạm gọi là nhãn thức “thiên giới”, nó không phủ định, nhưng chỉ ra tính tương đối và ước lệ của nhãn thức địa giới. Andrei Bolkonski, cái tôi thứ hai của tác giả, trong phạm vi một cuộc đối thoại tâm tình chuyển dịch từ nhãn thức này sang nhãn thức kia mà không cảm thấy một tí mâu thuẫn nào giữa mình với mình, bởi vì nhân vật này thường xuyên làm như thế trong suốt vận trình của tiểu thuyết. Ngay từ đầu đã là thế: trong trận đánh ở Austerlitz, còn đang ao ước lập chiến công, mơ tưởng đến vinh quang của Napoléon thì công tước Andrei cầm quân kỳ ngã xuống chiến trường, mở mắt ra trông thấy bầu trời cao lồng lộng và trên cái nền trời ấy hình ảnh một Napoléon chiến thắng và đắc thắng lập tức và mãi mãi trở nên bé nhỏ trong mắt chàng. Một cuộc đảo lộn tâm thức trong chớp loáng như thế có hiện thực hay không? Trường đoạn này trong tiểu thuyết được viết thật hơn đời thực. Bảy năm sau, trên cánh đồng Borodino nhân vật này lại cảm thức và phát biểu tương tự: chiến tranh giữ nước giữ nhà là việc chính nghĩa, việc đáng làm, song mọi cuộc chiến tranh, mọi sự giết người đều là tội lỗi của con người trước Thượng Đế và không được tự hào về tội lỗi ấy. Trong cuộc đối thoại này Bolkonski đã trực tiếp cầu viện đến Thượng Đế như là cấp phán xử cuối cùng (“không biết Chúa ở trên ấy nhìn và nghe thấy thế nào!”)

Hơn 20 năm sau khi hoàn thành tiểu thuyết “Chiến tranh và hòa bình” Tolstoi viết thiên khảo luận dài “Vương quốc của Thiên Chúa ở trong ta”, trong đó ông xác định ba kiểu nhân sinh quan: cá nhân luận, xã hội luận và thượng đế luận. Thế nào là nhân sinh quan cá nhân luận và thượng đế luận, thiết tưởng không cần giải thích, nhưng khái niệm “nhân sinh quan xã hội luận” của Tolstoi có một nội hàm đặc thù rất xác định: đó là nhân sinh quan xuất phát chỉ từ lợi ích của từng kiểu và từng cấp hợp quần (cộng đồng) người, từ gia đình đến quốc gia và liên minh quốc gia, mà giới hạn là toàn nhân loại. Theo Tolstoi, các kiểu liên kết ấy cùng với nhân sinh quan thích ứng với chúng là những thực tại lịch sử trong những điều kiện nhất định cần thiết cho con người, nhưng do bản chất vị kỷ của chúng mà luôn luôn có sức mạnh nô dịch con người, trói buộc nó, làm tha hóa nó, che khuất khỏi mắt nó cái chân và cái thiện đích thực, nếu con người không hấp thụ và lấy làm kim chỉ nam cho mình cái nhân sinh quan”thượng đế luận”, yêu thương tất cả mọi sinh linh con người như nhau và không dành cho bất kỳ một người nào hay một hợp quần người nào một ưu đãi, một đặc quyền đặc lợi nào. Và chỉ yêu kính Thượng Đế và đoàn kết triệt để trong Thượng Đế thì loài người mới có cơ dựng xây trên trái đất một cuộc sống thiện hảo, trong ngôn ngữ tôn giáo gọi là Vương quốc của Thiên Chúa (Nước Trời). Trở lại với tiểu thuyết “Chiến tranh và hòa bình”, ta thấy cái nhân sinh quan “thượng đế luận” ấy tuy chưa hoàn bị và chưa được ý thức rõ ràng, song đã hiện diện trong nhãn thức của tác giả và các nhân vật mà ông yêu quý nhất. Chính cái nhãn thức được quán triệt ấy bảo đảm cho tác phẩm của ông sức sống lâu bền, điều mà không thể nói về những “tiểu thuyết – sử thi” của nhiều tác giả ở nhiều nước khác nhau, bắt chước nghệ thuật của Tolstoi nhưng xa lạ hay không hấp thụ nhiều nhuần nhuyễn nhãn thức “thượng đế luận” của ông.

Xin chuyển sang thí dụ thứ hai – đó là bài viết “Gửi đại hội Slavơ ở Sofia”, hoàn thành vào thượng tuần tháng Bảy 1910 – chỉ bốn tháng trước khi Tolstoi qua đời. Lý do của bài viết này là thư mời tham dự Đại hội của các dân tộc Slavơ được tổ chức ở Sofia, thủ đô nước Bungari mới giành được độc lập chính trị sau năm thế kỷ bị đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ đô hộ. Mặc dù trong thư mời được nhấn mạnh rằng đại hội này sẽ tuyệt không bàn đến những vấn đề chính trị mà chỉ nhằm mục đích đoàn kết và liên kết các nước và dân tộc Slavơ về mặt văn hóa – kinh tế, Tolstoi đã gửi đến đại hội một thông điệp có tính phê phán rõ rệt. Do thông điệp này ngắn gọn, xin dẫn ra dưới đây hầu như toàn văn:

“Đoàn kết con người, chính sự đoàn kết mà nhân danh nó các vị tập trung lại với nhau, không những là công việc quan trọng nhất của nhân loại, mà tôi còn thấy trong sự đoàn kết ấy có cả ý nghĩa, cả mục đích và hạnh phúc cuộc sống con người. Nhưng để cho hoạt động ấy mang lại ân phúc, cần làm sao để nó được thấu hiểu trong tất cả ý nghĩa của nó, không bị hạ thấp, hạn chế hoặc xuyên tạc. Cần phải là như vậy đối với tất cả mọi hoạt động quan trọng nhất của loài người, như tôn giáo, tình yêu, sự phục vụ nhân loại, khoa học và nghệ thuật. Tất cả cho đến cùng, đến tận những kết luận cuối cùng, cho dù chúng có xa lạ hoặc khó chịu đến thế nào đi chăng nữa cho ta. Hoặc là tất cả hoặc không có gì. Chẳng thà không có gì, chứ không phải là một vài thứ, bởi vì tất cả những hoạt động vĩ đại nhất của tâm hồn con người, nếu không thực hiện đến cùng thì không những không hữu ích, không mang lại lợi ích gì, cho dù nhỏ nhoi nhất, mà còn có sức phá hủy và hơn tất cả những điều khác ngăn cản đạt tới cái đích mà chúng tưởng chừng hướng tới.

Không phải nghi ngờ gì nữa, những con người đoàn kết bao giờ cũng mạnh hơn những người chia rẽ. Gia đình mạnh hơn những cá thể. Một băng cướp bao giờ cũng mạnh hơn những tên cướp một mình. Cộng đồng mạnh hơn những cá thể riêng biệt. Một quốc gia được đoàn kết bằng lòng ái quốc mạnh hơn các sắc tộc sống tách biệt. Nhưng vấn đề là ở chỗ, ưu thế của những người đoàn kết so với những kẻ tách biệt và hậu quả không tránh khỏi của ưu thế đó, sự nô dịch hay ít nhất là sự bóc lột những người tách biệt lấy, tự nhiên gợi cho những người ấy nguyện vọng đoàn kết, thoạt đầu để chống lại bạo lực, rồi sau đó để thực hiện bạo lực. Dĩ nhiên, khi đã gánh chịu cái ác do sự liên kết của các nhà nước Áo, Nga, Đức, Thổ Nhĩ Kỳ, thì các dân tộc Slavơ có nguyện vọng đoàn kết nhằm chống lại cái ác đó, nhưng khối liên kết mới đó, giả dụ nó được thành lập, tất yếu sẽ bị lôi kéo vào kiểu hoạt động y như vậy, không những để đối phó với các liên minh khác, mà còn để đàn áp và bóc lột những liên minh yếu hơn, nghèo hơn, và chống lại những cá nhân riêng biệt.

Đúng, đoàn kết là ý nghĩa, mục đích và hạnh phúc của đời sống nhân loại, nhưng mục đích và hạnh phúc ấy chỉ đạt được khi đây là sự đoàn kết toàn thể nhân loại, vì một nền tảng chung cho toàn nhân loại, chứ không phải là sự liên kết mấy nhóm nhỏ hoặc lớn của nhân loại vì những mục đích hạn chế, cục bộ. Cho dù đó là những liên kết gia đình, hay đảng cướp, hay cộng đồng, hay quốc gia, của một dân tộc hay của “liên minh thần thánh” giữa các quốc gia, những liên kết như vậy không những không trợ giúp, mà còn cản trở sự tiến bộ chân chính của loài người. Và vì vậy để phục vụ hữu thức cho sự tiến bộ chân chính, ít nhất tôi nghĩ như thế, cần không ủng hộ tất cả những liên kết cục bộ như thế, mà phải luôn luôn chống lại chúng. Đoàn kết là chìa khóa giải phóng con người khỏi cái ác. Nhưng để chìa khóa đó thực hiện được chức năng của mình, cần đẩy nó đến cùng, đến chỗ nó phải mở ra, chứ không được để nó bị gãy và làm hỏng ổ khóa. Đoàn kết cũng cần phải như vậy, để đạt được những kết quả đại phúc đại hạnh thích hợp với nó, nó phải nhằm mục đích liên kết tất cả mọi người, vì một khởi nguyên chung cho tất cả nhân loại, được tất cả mọi người thừa nhận như nhau. Mà sự liên kết đó chỉ có thể là liên kết dựa trên cơ sở tôn giáo của đời sống, – cái cơ sở mà chỉ có nó mới đoàn kết mọi người, nhưng tiếc thay lại bị đa số những người đang lãnh đạo các dân tộc trong thời đại chúng ta cho là đã lỗi thời, không cần thiết.

Người ta sẽ bảo tôi rằng: chúng tôi thừa nhận nền tảng tôn giáo đó, nhưng không chối bỏ cả nền tảng nối kết các bộ lạc, dân tộc, quốc gia. Nhưng vấn đề là ở chỗ cái này loại trừ cái kia. Nếu thừa nhận mục đích cuộc sống nhân loại là đoàn kết toàn thế giới, mang tính tôn giáo, thì bản thân sự thừa nhận ấy phủ định mọi cơ sở đoàn kết khác và ngược lại, sự thừa nhận là cơ sở của đoàn kết yếu tố bộ lạc, dân tộc, quốc gia – ái quốc tất yếu sẽ phủ định nguyên lý tôn giáo như là nền tảng thực sự của cuộc sống nhân loại.

Tôi nghĩ, tôi hầu như tin chắc rằng những ý nghĩ mà tôi đã trình bày sẽ bị coi là bất khả thi và không đúng đắn, nhưng tôi cho rằng mình có nghĩa vụ phải nói thẳng ra điều đó với những người mà, bất chấp sự phủ định chủ nghĩa ái quốc bộ lạc và dân tộc nơi tôi, dù sao đi nữa cũng gần gũi với tôi hơn những người thuộc dân tộc khác. Nói một điều to lớn hơn nữa, vứt bỏ những suy tính về việc, căn cứ vào những lời nói này của tôi người ta có thể cáo buộc tôi thiếu nhất quán và mâu thuẫn với chính mình, tôi xin nói rằng điều đặc biệt đã khiến tôi phải nói ra những gì mà tôi vừa trình bày, niềm tin của tôi vào việc cái nền tảng tôn giáo của sự đoàn kết đại đồng ấy, mà chỉ một mình nó có thể đoàn kết ngày một nhiều người hơn và dẫn họ đến với hạnh phúc phù hợp với bản tính của họ, rằng nền tảng ấy sẽ được tất cả các dân tộc trong thế giới Ki tô giáo tiếp nhận, trước hết là các dân tộc thuộc nòi giống Slavơ.”

Bài viết này cho thấy rất rõ những đặc điểm nổi bật của cái lối suy luận, cái nếp tư duy nơi nhà tư tưởng Tolstoi. Có thể gọi nó bằng một từ – cực đoan, thể hiện ở ngay phương châm mà ông đã không ngần ngại đưa ra: “Hoặc là tất cả hoặc không có gì”. Chủ trương đoàn kết toàn nhân loại và lấy đó làm đích, Tolstoi gạt bỏ mọi hình thức liên kết trung gian, nhìn thấy ở chúng những chướng ngại vật cho sự đạt tới đích cuối cùng ấy. Gia đình, tổ quốc bị đặt lên cùng một mặt bằng với đảng cướp – cơ sở của chúng là chủ nghĩa ích kỷ vụ lợi. Tất cả các liên minh ít nhiều mang tính cục bộ, không chỉ những liên minh quốc gia – chính phủ (Tolstoi là người theo chủ nghĩa vô chính phủ triệt để) mà cả những tổ chức nay gọi là phi chính phủ, cũng đều bị coi là đi ngược lại tôn chỉ đoàn kết toàn nhân loại và bị lên án.

Chỉ cần hỏi Tolstoi: thế nhưng để đấu tranh cho sự đoàn kết toàn nhân loại ấy từng con người riêng lẻ phải dựa vào, phải tham gia ít nhất một tổ chức nào chứ? Thì ông sẽ không trả lời (thực ra ông có câu trả lời, xin được nói đến sau). Thành thử bắt bẻ Tolstoi là việc rất dễ, và biết bao người đã bắt bẻ ông, nói thẳng với ông: sự cực đoan quá khích là phản chỉ định, là không thể chấp nhận ở nhà triết học, nhà tư tưởng xã hội. Thế nhưng Tolstoi không hề sửa đổi, vẫn tiếp tục cực đoan, như ta thấy, cho đến khi từ giã cõi đời này. Tại sao lại thế? Đơn giản: cực đoan (đẩy đến cực độ) là lợi thế và lợi khí của tư duy nghệ thuật, và Tolstoi, nghệ sĩ vĩ đại, không ngần ngại sử dụng nó trong những thể loại diễn ngôn phi nghệ thuật. Và sự lạm dụng ấy, trong trường hợp Tolstoi, lại đem đến những hiệu quả bền vững tuy không ngay lập tức. Đọc văn nghị luận của Tolstoi, rất nhiều khi ta có cảm tưởng rằng ông viết về ngày hôm nay của đất nước chúng ta, thế giới chúng ta. Cái trực giác, cái linh giác nghệ sĩ đã giúp nhà tư tưởng Tolstoi nắm bắt không sai lầm những vấn đề mới chớm nở trong xã hội thời ấy nhưng sẽ trở thành những vấn nạn của xã hội ngày nay, những ung nhọt mới nảy sinh trên cơ thể nhân loại mai sau sẽ biến thành những ổ ung thư. Đọc lại bài “Gửi đại hội Slavơ ở Sofia” và liên hệ với thực tại của thế giới trong thế kỷ qua và ngày nay, với những khẩu hiệu đoàn kết mị giai cấp, mị nhân dân, mị dân tộc và cả mị nhân loại siêu hiệu quả, với sự lộng hành của đủ mọi kiểu liên kết, liên minh hoạt động nhân danh nào giai cấp, nào nhân dân, nào dân tộc, nào nhân loại nhưng trong thực tế lấy những lợi ích vị kỷ cục bộ của mình thay cho lợi ích của cả giai cấp, cả nhân dân, cả dân tộc, cả nhân loại, và với những tai họa toàn cầu hiện nay mà chỉ có thể khắc phục bằng sự đoàn kết thực sự của mọi người trên hành tinh này, vượt mọi rào cản của các liên minh nói trên, lẽ nào không thừa nhận sự nhìn xa thấy trước phi thường của Tolstoi, chân lý anh minh trong cái tưởng là sự cực đoan mất trí của ông?

 

Tác giả