Hành trình tư tưởng của Tolstoi nhìn từ hôm nay (Kỳ VII)
Cho đến giờ, chúng tôi vẫn chủ yếu nói về những luận điểm, những tư tưởng mang tính phủ định của Tolstoi. Bây giờ xin được đề cập, cũng chỉ qua loa, tới mặt chính diện, khẳng định trong học thuyết của ông. Do khuynh hướng đạo đức luận rõ rệt của tư duy Tolstoi, mọi khẳng định chính diện nơi ông đều tập trung xung quanh vấn đề con người nên sống thế nào.
Thứ hai, Tolstoi tin tưởng sắt đá rằng những lời khuyên của ông hữu ích trong mọi hoàn cảnh của cá nhân con người và trong mọi cục diện của xã hội loài người, bất cứ chúng là thế nào. Đến đây, cần nói đến một quan điểm kiên định nữa của Tolstoi. Ông sống và hoạt động trong thời đại khi mà do những bước tiến vượt bậc của khoa học, con người càng ngày càng tin tưởng vào khả năng của mình đoán biết chính xác tương lai của loài người, và từ những tiên đoán được gọi là khoa học người ta xây dựng nhiều học thuyết xã hội rất “dài hơi”, cho tiền đồ hàng thế kỷ nhân loại, và từ cái tiền đồ tưởng là nắm trong tay ấy mà người ta thiết lập những cương lĩnh hoạt động cho từng thời kỳ lịch sử ngắn hơn, quy định những nhiệm vụ phải được giải quyết và những mục tiêu phải đạt được trong từng thời kỳ (thí dụ điển hình là chủ nghĩa Mác).
Tolstoi về mặt này là kẻ ngoan cố theo thuyết bất khả tri. Ông cho rằng nếu con người không thể biết được nó tồn tại trong thế giới này để làm gì (nói bằng ngôn ngữ thần học: Thượng Đế phái cử nó vào cõi đời này để làm gì), nó từ đâu đến và sẽ đi đến đâu, thì nó cũng không thể biết được tương lai của loài người sẽ ra sao. Hơn thế nữa, Tolstoi còn quả quyết: con người không nên cố gắng biết về cái không thể biết, việc ấy chỉ có hại cho nó. Trong tác phẩm “Về ý nghĩa của cách mạng Nga” (1906) ông viết:
“Con người không chỉ không thể biết, đời sống xã hội trong tương lai sẽ thâu thái những hình thức thế nào, song còn thường là không tốt cho con người, khi nó tưởng rằng nó có thể biết về cái đó. Không tốt bởi vì không gì cản trở dòng chảy đúng đắn của đời sống con người như cái tri thức hư ngụy về việc cuộc sống tương lai của loài người phải là thế nào. Cuộc sống của từng con người riêng lẻ lẫn các xã hội chỉ là ở chỗ những con người và những xã hội đi đến cái chưa được biết, không ngừng biến đổi không do những hoạch định duy lý của dăm ba người về việc những biến đổi ấy phải là thế nào, mà do ý nguyện hướng tới sự hoàn hảo đạo đức – tinh thần nằm sâu trong tất cả mọi người, được thể hiện bằng hoạt động đa dạng vô tận của hàng triệu và hàng triệu cuộc sống con người. Vì thế những điều kiện mà con người sẽ tạo ra trong quan hệ với nhau và những hình thức mà xã hội của những con người sẽ thâu thái chỉ phụ thuộc vào những thuộc tính nội tại của con người, chứ tuyệt không phải vào việc con người tiên đoán được hình thức này hay hình thức khác mà họ mong muốn đời sống của họ thu nhận được. Nhưng trong khi ấy thì những người không tin vào luật của Thượng Đế lại luôn luôn tưởng rằng họ có thể biết, trạng thái tương lai của xã hội sẽ phải là thế nào và họ không chỉ xác định cái trạng thái tương lai ấy, mà còn làm đủ mọi việc chính họ cho là xấu xa chỉ cốt sao cho xã hội loài người trở nên như họ mong muốn. […] Hậu quả tai hại nhất của sự tiên tri hư ảo về việc xã hội tương lai phải là thế nào và của cái hoạt động nhằm biến cải xã hội – đó là chính sự tiên tri hư ảo ấy và chính hoạt động biến cải ấy cản trở hơn cả sự vận động của xã hội theo con đường thích hợp với nó, vì lợi ích chân chính của nó”.
Như vậy, theo Tolstoi, con người không thể tiên kiến và hoạch định tương lai, Thượng Đế không cho nó năng lực ấy, và nếu nó vẫn cứ cố làm cái việc bất khả ấy thì nó chỉ có thể dựng xây những lâu đài trong không trung thay vì xây dựng nhà ở cho mình và đồng loại trên mặt đất, và say mê với những sứ mệnh xa viễn và hư ảo, nó sẽ quên lãng những nhiệm vụ và bổn phận trong đời thực ngắn ngủi của nó. Tương tự như thế, trong lĩnh vực thám hiểm tự nhiên, con người cũng không được ban cho năng lực phát lộ những bí mật cuối cùng của thế giới, cho nên nếu nó vẫn cứ cố làm điều ấy, thì nó sẽ chỉ tính toán chính xác được những điều như trái đất cách xa mặt trăng, mặt trời và các thiên thể khác bao nhiêu cây số, những con số chính xác ấy không làm cho nó trở nên thông minh hơn và hữu đức hơn, nhưng nếu nhét đầy đầu mình những con số như thế, nó sẽ tưởng rằng nó đủ sức chinh phục thiên nhiên và hoạt động với ảo tưởng như thế về mình, nó sẽ làm cho chính mình càng ngày càng không còn khả năng sống trên trái đất nữa. Cho nên, để nó có thể sống an phúc và dài lâu trên hành tinh này, nó phải biết tự hạn chế những đối tượng tìm hiểu và phấn đấu đạt tới, phải biết xác định cái gì là quan trọng hơn cả cho mình và tập trung sức mình vào đấy và chỉ khi đã làm tốt cái việc quan trọng nhất ấy thì mới nghĩ đến những việc khác.
Cái việc quan trọng nhất ấy, theo Tolstoi, là làm sao sống cho có ý nghĩa cái cuộc sống phù du nay còn mai mất của mình, mà cuộc sống ấy thì toàn bộ nằm trong hiện tại. Và nếu mỗi người làm tốt những gì cần phải và có thể làm trong hiện tại, thì chẳng việc gì cần phải lo âu về tương lai của thế giới và nhân loại. Tolstoi ưa dẫn lời dạy của Kitô: “Đừng lo lắng cho ngày mai, bởi vì ngày nào có nỗi lo của ngày ấy”, và ông cũng đưa ra châm ngôn của mình: “Việc gì quan trọng nhất trên đời? Việc ta đang làm”.
*
* *
Sống có ý nghĩa, theo Tolstoi ( và ở đây ông không đơn độc) trước hết là sống trong tình yêu. Về tình yêu đối với Thượng Đế như là một điều kiện không thể thiếu cho tình yêu đích thực đối với con người chúng tôi đã nói đến. Chỉ cần nói thêm là theo đạo đức học Kitô giáo mà Tolstoi hoàn toàn chia sẻ ở điểm này thì với con người ta cần phải yêu thương như yêu thương bản thân mình (dĩ nhiên có thể yêu thương hơn bản thân) nhưng với Thượng Đế thì cần phải luôn luôn yêu kính hơn bản thân, yêu kính tuyệt đối.
Tolstoi nói rằng cái họa của loài người không phải ở chỗ họ không biết yêu kính và xả thân cho cái mình yêu kính, mà nhiều phần hơn ở chỗ họ hay yêu kính tuyệt đối cái không đáng yêu kính tuyệt đối và không yêu kính hay yêu kính không tuyệt đối cái phải được yêu kính tuyệt đối. Người đời tìm những đối tượng ngưỡng mộ và tin theo ở thế giới bên ngoài, ở đủ các nhân vật và thế lực được thần thánh hóa, nhưng lại không biết tôn kính và nghe theo Thượng Đế sống trong mình và nói bằng tiếng nói của trí tuệ và lương tâm mình. Chỉ Thượng Đế sống trong ta ấy, mà Tolstoi hay đối lập với Thượng Đế phát ngôn qua tiếng nói của các linh mục, mới là người hướng đạo đáng tin cậy trong toàn bộ cuộc đời của ta, mới chỉ bảo cho ta cần phải xử sự như thế nào trong từng trường hợp khó xử trong cuộc đời.
Tolstoi khẳng định: trong mọi tình huống có thể xảy ra, dù chúng có khó khăn đến đâu, vẫn có thể tìm được lối thoát xứng đáng, chỉ cần chúng ta nhớ rằng trong chúng ta có một Thượng Đế. Không biết trước Tolstoi có nhà truyền giáo nào nói mạnh như thế không, nhưng Tolstoi thì không ngớt nhắc lại điều này phải chăng vì ông tiên cảm được trong những thập kỷ sắp đến trên thế gian sẽ xuất hiện những cảnh huống nghiệt ngã chưa từng có trong lịch sử và rất nhiều người thiện lương và đầy trí lực sẽ sa ngã ê chề chỉ vì họ không còn nhớ đến Thượng Đế sống trong họ?
Không thể yêu thương đồng loại mà lại không yêu kính Thượng Đế và không thể yêu kính Thượng Đế mà lại không thương yêu đồng loại – chân lý này của đạo Kitô ở độ sâu nhất phù hợp với chân lý của các tôn giáo khác. Nét riêng của Tolstoi trong cách hiểu chân lý này là ở chỗ Tolstoi không bao giờ dùng định thức phổ biến trong thần học Kitô giáo – “con người là hình ảnh và thể tương đồng với Thiên Chúa”, mà nói xác định hơn và mạnh bạo hơn, xóa nhòa ranh giới giữa đấng sáng tạo với vật thụ tạo: mọi người đều là con của Thượng Đế hay, như vừa dẫn, Thượng Đế sống trong mọi người. Tức là sống trong từng người mà ta bắt gặp, tiếp xúc, có quan hệ trong cuộc sống hàng ngày – đúng theo nghĩa chữ của từ “blizhnij; the next; le prochain” được chuyển dịch sang tiếng Việt bằng từ “đồng loại” hơi trừu tượng. Yêu cái người ở sát nách ta ấy, cái người mà ta ngày ngày cùng sinh hoạt, cùng làm việc và nhiều khi không ưa, xích mích, thù ghét là việc khó hơn rất nhiều so với yêu những đồng loại ở xa, yêu nhân loại chung chung, và Tolstoi viết nhiều về cái tình yêu khó xây dễ phá ấy, coi nó là công việc quan trọng nhất của đời người. Câu châm ngôn của ông được dẫn ở trên có phần tiếp theo: “Ai là người quan trọng nhất trên đời? Người đang giao thiệp với ta”.
Với Tolstoi, cũng như với mọi người nhân đạo chân chính, tình yêu con người phải luôn luôn cần mẫn, phải không chỉ là thái độ và tình cảm mà còn là hành vi và việc làm. Ông thích nhắc lại lời dạy của Khổng Tử: “Cái gì không muốn cho mình thì đừng làm cho người”, nhưng ông giải thích rằng đây là lời dạy không đi ngược lại tình nhân loại, còn để thực hiện tình nhân loại thì phải làm theo lời của Kitô: “Hãy đối xử với người như ta muốn được người đối xử với ta”. Có điều mặc dù những chân lý ấy, mà Tolstoi hay viện dẫn và minh họa, là không thể bác bỏ, những người không ưa thích ông vẫn chê ông nặng óc duy lợi: cả hai điều răn trên đều không ra ngoài lợi ích của con người. Thế còn tình yêu và cái thiện như là những giá trị tự thân tự tại? Nhưng Tolstoi cũng biết khẳng định chúng. “Nếu việc thiện được làm vì một cái gì đó, thì nó đã không còn là việc thiện. Ta chỉ yêu thực sự khi không biết tại sao và để làm gì”.
Ở mệnh đề đầu ông nói theo Kant, ở mệnh đề sau ông đã nói như một triết gia – nghệ sĩ, xuất hiện trong thể lưỡng – nhất thuần toàn rất hiếm hoi. “Người ta nói: có ích lợi gì làm điều thiện cho những người khác, khi mà họ thường lấy ác trả thiện? Nhưng nếu bạn yêu thương người được bạn làm thiện, thì bạn đã nhận được phần thưởng rồi trong tình yêu đối với người ấy và bạn sẽ còn nhận được phần thưởng lớn hơn trong lòng mình, nếu với tình thương yêu con người ấy bạn sẽ chịu đựng cái ác mà người ấy gây cho bạn”. “Người đời hay nghĩ rằng nếu họ thương yêu đồng loại thì họ đã lập công trước Thượng Đế. Song sự thể hoàn toàn ngược lại. Nếu bạn thương yêu đồng loại, thì không phải bạn đã lập công trước Thượng Đế, mà Thượng Đế đã cho bạn cái hạnh phúc lớn nhất trên đời – tình yêu”.
*
* *
Sống có ý nghĩa, theo xác tín của Tolstoi, còn là sống trong tự do. Tự do theo cả nghĩa phản diện lẫn chính diện, cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Tự do theo nghĩa phản diện được Tolstoi hiểu như là sự không bị lệ thuộc, không bị trói buộc bởi bất cứ cái gì cản trở sự thể hiện bản chất thần thánh của con người. Sự giành lấy cái tự do ấy bắt đầu từ việc con người làm chủ bản thân, chế ngự những dục vọng của thân xác, đặt thân xác dưới sự chỉ huy của tinh thần – ở đây, Tolstoi hầu như không nói cái gì của mình mà chỉ trình bày lại những cơ sở của phép khổ hạnh tôn giáo mà không đạt được sức lôi cuốn của nhiều nhà khổ tu đắc đạo truyền đạt kinh nghiệm của mình. Những người ấy trong thái độ với thân xác biểu lộ một sự hiểu biết, đồng cảm, thương mến bất cập đối với nhà tư tưởng Tolstoi.
Nét riêng của Tolstoi bộc lộ ở chỗ khác. Khi đặt vấn đề về việc không ai có quyền sống bằng lao động của người khác và ai ai cũng phải bằng lao động chân tay kiếm sống cho mình và gia đình mình thì Tolstoi không chỉ khẳng định lao động như là nghĩa vụ không thể thoái thác của mọi người mà còn nói với ta rằng chỉ cái lao động “cơm áo” ấy, lao động làm ra những nhu yếu phẩm không thể thiếu cho con người mới mang lại cho nó cái độc lập vật chất triệt để, sự không phụ thuộc vào bất cứ một ai, không bị ai lợi dụng sự phụ thuộc ấy mà cưỡng bức, tha hóa, nô dịch. Lao động nông nghiệp, đời sống nhà nông được Tolstoi yêu chuộng đến thế không chỉ vì chúng gần gũi với thiên nhiên, lành mạnh và đem lại nhiều niềm vui cho con người mà còn bởi vì theo ông những con người tự làm ra cái ăn cái mặc cho mình là những người độc lập nhất, tự do nhất, có nhiều điều kiện nhất để thể hiện và bảo vệ nhân phẩm của mình, những xác tín, sở thích và nguyện vọng chính đáng của mình, có nhiều khả năng nhất chống đối mọi hình thức áp lực từ bên ngoài, bất cứ chúng xuất phát từ đâu. Và cái lao động bảo đảm những nhu yếu phẩm cho mình ấy cũng là căn cứ vững chắc cho tự do sáng tạo ở những người có năng lực sáng tạo tinh thần – cái tự do sáng tạo ấy, cũng như tự do xác tín, tự do ngôn luận, tự do làm những việc mình yêu thích đã là cái tự do chính diện – một trong những mục đích và giá trị cao nhất của nhân sinh.
Xuất phát từ quan niệm như thế mà Tolstoi kêu gọi những người đã rời bỏ đất ở các xã hội công nghiệp trở về với đất, còn các dân tộc đang làm nghề nông thì đừng rời bỏ, đừng đi theo vết xe đổ của các nước phương Tây, nơi những người công nhân nhà máy là những người mất tự do nhất, bị nô dịch nhất, còn những tầng lớp khác, không lao động thì lại càng không có tự do vì bị nhà nước và tư bản mua. Phương sách mà Tolstoi đề xướng để đạt tới và bảo vệ cái tự do thực chất, không phải hình thức, là như thế. Nó có hiện thực không? Sẽ là bất công nói nó hoàn toàn không hiện thực (vì sao xin được nói đến sau). Thế nhưng tại sao cái cơ sở vật chất cho tự do ấy – các công xã nông nghiệp ở Nga, ở Trung Quốc, ở Ấn Độ – những nơi Tolstoi gửi gắm hy vọng – lại tan rã đồng loạt và nhanh chóng như thế trước sức tấn công của kinh tế thị trường, kinh tế tư bản chủ nghĩa? Và có đúng là cái cơ sở vật chất ấy một mình nó có thể bảo đảm cho tự do thực chất của con người? Chính Tolstoi trong những thư ngỏ gửi nhân dân Trung Quốc, nhân dân Ấn Độ không nể nang trách cứ, phê phán họ đã bán rẻ tự do của mình đổi lấy những lợi ích cỏn con được ban phát từ tay những kẻ áp bức bóc lột nội tộc và ngoại tộc. Có nghĩa là có thể có cơ sở vật chất cho tự do, nhưng vẫn không có tự do, hay tự do vẫn tiêu vong, nếu con người không quý giá tự do và ưa thích những giá trị khác hơn. Thành thử vẫn chỉ có một tự do không phải thiết lập và không thể mất đi – tự do trong Thượng Đế, từ sự thấm nhuần và sự trung thành trước sau như một với những chân lý của Thượng Đế – điều mà Tolstoi cũng luôn luôn khẳng định.
Về thái độ phủ định của Tolstoi đối với những hình thức tự do tương đối đã đạt được trong đời sống các dân tộc phương Tây cũng xin được nói đôi lời. Đây không phải là định kiến ngoan cố của nhà văn Nga, từ một nền văn minh kém phát triển nhìn vào nền văn minh phát triển hơn nhiều, như một số người ở phương Tây nói. Một nhận định như thế có thể là đúng đối với phái “thân Slavơ”, nhưng không đúng với Tolstoi. Thái độ phủ định của ông trong trường hợp này lại là một biểu hiện của lối tư duy gọi là cực đoan cũng được, gọi là triệt để thì sát hơn của nhà tư tưởng – nghệ sĩ vĩ đại. Tolstoi không muốn các dân tộc phương Tây thỏa mãn với cái tự do rất tương đối, tự do hình thức đã đạt được và ngại rằng, để mai một đi đức tin tôn giáo, chối bỏ Thượng Đế, đặt những lợi ích vật chất lên trên những lợi ích tinh thần, họ sẽ không bao giờ thực hiện được tự do chính thực. Thứ hai, ông nhìn thấy rõ tính không chắc chắn, không vững chãi của cái tự do tương đối ấy, và từng cảnh báo rằng trong những tình huống khủng hoảng xã hội nó rất dễ chuyển hóa thành chế độ độc tài, và lịch sử thế kỷ vừa qua đã xác nhận lời cảnh báo ấy. Ngay cả ở những nước phát triển đã tránh được những cuộc chuyển hóa như thế, tự do của người dân cũng đang bị ngày một hạn chế, thắt chặt, đặt dưới sự kiểm soát gắt gao của nhà nước và các cơ cấu quyền lực liên quốc gia.