Lạm bàn về tính ghi ý của chữ Hán (Nhân đọc “Nghiên cứu chữ Hán hiện đại của thế kỷ XX”)*

Ngôn ngữ** gồm tiếng nói và chữ viết. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “chữ viết là hệ thống ký hiệu bằng đường nét đặt ra để ghi tiếng nói”. Chúng tôi thiển nghĩ Chữ viết là hệ thống ký hiệu thị giác dưới dạng văn bản dùng để ghi tiếng nói và ý nghĩ của loài người. Ở đây thêm “ghi ý nghĩ” vì người ta nghĩ nhiều hơn nói, không nói được vẫn có thể dùng chữ để biểu thị ý nghĩ. Thêm “dưới dạng văn bản” để phân biệt với loại ngôn ngữ bằng tay mà người câm điếc dùng, cũng là hệ ký hiệu thị giác ghi tiếng nói và ý nghĩ nhưng không phải là chữ viết. Chữ viết gắn bó chặt chẽ với tiếng nói, khi nghiên cứu chữ viết phải xem xét mối quan hệ cực kỳ quan trọng này.

Do nguyên nhân lịch sử, người Việt Nam luôn quan tâm tới chữ Hán. Vả lại đây là loại chữ viết độc đáo và có nhiều người dùng; nghiên cứu chữ Hán có thể giúp làm rõ các vấn đề về ngôn ngữ học (NNH), một lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn cực kỳ phức tạp.

 

Tính chất chủ yếu của chữ Hán

 

Khác với các loại chữ viết còn lại, chữ Hán được cấu tạo chủ yếu dựa vào ý nghĩa mà chữ thể hiện chứ không dựa vào ngữ âm; mỗi chữ biểu thị một ý nghĩa, nhìn chữ không đọc được âm; thông tin chủ yếu mà tự hình đem lại là ý nghĩa của chữ, không phải âm đọc; nghĩa là chữ không có quan hệ trực tiếp với ngôn ngữ nói. Đặc tính này làm cho chữ Hán có một số phận đặc biệt.

Căn cứ vào phương thức chữ viết dùng để biểu đạt ngôn ngữ, tổ sư NNH thế giới Ferdinand de Saussure (1857-1913) chia chữ viết của loài người làm hai hệ thống lớn là chữ biểu ý (chữ ghi ý, ideogram) và chữ biểu âm (chữ ghi âm, phonogram), và xác định chữ Hán là loại chữ biểu ý. Quan điểm đúng đắn này được nhiều nhà NNH Trung Quốc (TQ) tán thành. Nhưng có người cho rằng từ “chữ biểu ý” dễ gây nhầm lẫn [xem Tô Bồi Thành – từ đây ký hiệu là SĐD, trang14].

Năm 1957, Châu Hữu Quang (1906-2017) nêu quan điểm: Chữ viết trải qua ba giai đoạn phát triển là chữ hình ý, chữ ý âm và chữ biểu âm. Các loại chữ nguyên thủy đều dùng phương pháp biểu hình và biểu ý để biểu đạt ngôn ngữ, gọi là chữ hình ý (ví dụ chữ tượng hình), chưa biểu âm; về sau phát triển thành chữ ý âm (ideo-phonogram), vận dụng tổng hợp hai phương thức biểu ý và biểu âm để biểu đạt ngôn ngữ. Chữ Hán, chữ Ai Cập cổ, chữ hình nêm, chữ Maya thuộc loại chữ ý âm. Chữ biểu âm là giai đoạn phát triển cuối cùng. Chữ Ai Cập cổ và chữ hình nêm trải qua 2000 năm thai nghén sinh ra chữ cái, hình thành chữ biểu âm.[SĐD tr. 20].     

Triệu Nguyên Nhiệm (1892-1982) coi chữ Hán là chữ ngữ tố (logogram); ở đây ngữ tố (morpheme) là đơn vị nhỏ nhất kết hợp ngữ âm với ngữ nghĩa; đơn vị của chữ ngữ tố là chữ (tự, không phải là chữ cái), mỗi chữ đều có ý nghĩa; mỗi chữ Hán thể hiện một ngữ tố đơn âm của Hán ngữ, ghi một âm tiết, là một từ. Chữ biểu âm không thể hiện ngữ tố, nó là chữ âm tố, nói chung mỗi chữ cái chỉ thể hiện một âm tố, không thể hiện nghĩa; âm tố còn gọi âm vị; có thể ghép các âm tố (chữ cái) thành một âm tiết. Lã Thúc Tương (1904-1998) tán thành Triệu, và nói Chữ Hán là sự kết hợp hình, âm, nghĩa; tất cả các loại chữ khác đều chỉ là sự kết hợp hình và âm. Như vậy thực ra chẳng khác gì nói chữ Hán là chữ biểu ý. [SĐD tr.9]

Tóm lại, dù xếp vào loại nào thì chữ Hán chủ yếu vẫn chỉ là ký hiệu ghi ý của ngôn ngữ. Ngay cả chữ hình thanh (chiếm hơn 80% tổng số chữ Hán) tuy có thành phần biểu âm gọi là “thanh bàng” nhưng không thể dựa vào thanh bàng để đọc âm của chữ. Như vậy, biểu ý là đặc tính chủ yếu của chữ Hán. Vì thế chữ Hán thích hợp với tình trạng Hán ngữ có quá ít âm tiết và quá nhiều phương ngữ. Nhờ dùng chữ Hán, người TQ khác vùng nghe không hiểu tiếng của nhau nhưng vẫn có thể giao tiếp với nhau bằng chữ viết. Tính biểu ý làm cho chữ Hán có những ưu điểm độc đáo cùng các nhược điểm nghiêm trọng: khó hiểu, khó học, khó viết, khó nhớ, khó dùng1. Cho tới nay vẫn có các đánh giá khác nhau về chữ Hán. Việc chấp nhận quan điểm “Chữ Hán là báu vật của văn minh cổ đại, lại là gánh nặng của văn minh hiện đại” được coi là một bước tiến của giới NNH TQ [SĐD tr.626].    

 

Vì sao chữ Hán thời cổ không biến đổi, tiến hóa?

 

Theo định nghĩa, chữ viết là một loại công cụ của tư duy; mà đã là công cụ thì phải luôn cải tiến nhằm nâng cao tính tiện dụng. Tất cả các loại chữ viết đều sớm cải tiến theo hướng ngày càng tiện sử dụng. Chữ Quốc ngữ do các giáo sĩ châu Âu sáng tạo vốn là công cụ để họ truyền bá đạo Ki-tô cho dân ta, qua nhiều cải tiến đã đạt yêu cầu ghi được 100% âm tiếng Việt và sau mấy trăm năm đã trở thành công cụ kỳ diệu giải phóng trí tuệ người Việt (lời học giả Phạm Quỳnh).


Chữ Hán thích hợp với tình trạng Hán ngữ có quá ít âm tiết và quá nhiều phương ngữ. Nhờ dùng chữ Hán, người TQ khác vùng nghe không hiểu tiếng của nhau nhưng vẫn có thể giao tiếp bằng chữ viết. Nguồn bản đồ: chinahighlights.com

Riêng chữ Hán mới ra đời đã bị thần thánh hóa, bị sùng bái, coi là kết tinh của văn minh Trung Hoa, trở thành thứ vật thiêng chẳng ai dám động chạm2. Là sở hữu riêng của tầng lớp trên, chữ Hán thời xưa chủ yếu ghi thứ “văn ngôn” cực khó hiểu, khác xa ngôn ngữ nói và không có những chữ ghi tiếng nói của dân, gây ra tình trạng “hữu âm vô tự”. Chế độ phong kiến lợi dụng sự thần bí, khó hiểu của chữ Hán để thực thi chính sách ngu dân nhằm bảo vệ ách độc tài chuyên chế. Những điều đó đã cản trở sự phát triển chữ Hán và đóng góp của nó cho tiến bộ xã hội.

Do thiếu động lực biến đổi, chữ Hán cổ không đi lên con đường tiến hóa chung như các loại chữ viết khác. Châu Hữu Quang nhận xét: Từ chữ Giáp Cốt cho tới chữ Hán hiện đại, nguyên tắc tổ chức chữ là như nhau [SĐD tr.35]. Người TQ nói việc ngày nay họ vẫn đọc hiểu loại chữ Hán viết ở đời Tần đã chứng tỏ văn minh Trung Hoa là nền văn minh cổ duy nhất tồn tại tới nay, và điều đó làm họ vô cùng tự hào. Đúng là các loại chữ cổ khác hiện rất ít người đọc được, vì chúng đều đã biến mất trong quá trình tiến hóa thành loại chữ tiên tiến hơn.

 

Phong trào cải cách chữ Hán

 

Tình trạng chữ viết ít biến đổi, ít tiến hóa thực ra là điều đáng chê trách. Nó làm cho các nhược điểm nghiêm trọng của chữ Hán tồn tại quá lâu dài, kìm hãm sự phát triển văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật… Hậu quả là cuối thế kỷ XIX, sau khi tiếp xúc với văn minh Âu Mỹ, giới tinh hoa TQ đã lôi chữ Hán ra khỏi điện thờ, phê phán, lên án nó là loại chữ lạc hậu và đòi sửa đổi, thay bằng chữ biểu âm. Từ đó trở đi các đời chính quyền TQ đều ra sức tiến hành cải cách chữ Hán.

Tháng 12/1954 Nhà nước TQ thành lập Ủy ban Cải cách chữ viết trực thuộc Chính phủ. Ủy ban này đã triển khai cải cách chữ Hán với quy mô lớn nhất trong lịch sử NNH thế giới và đã thu được một số kết quả khả quan.

Luật ngôn ngữ văn tự thông dụng Nhà nước TQ thi hành từ 1/1/2001 đã luật hóa việc sử dụng ba thành tựu cải cách: – Thay hơn 2200 chữ phồn thể bằng chữ giản thể; – Phương án ghép âm (Pinyin) Hán ngữ dùng chữ Latin (Scheme for Chinese phonetic alphabet); – Chuẩn hóa cấu hình và âm đọc chữ, sàng lọc bỏ một số chữ.

Các cải cách trên đã giảm bớt khó khăn khi học và dùng chữ Hán, nhờ thế nâng cao được trình độ biết chữ của dân, phổ cập tiếng Phổ thông, thống nhất tiếng nói trong cả nước, đưa được chữ Hán vào bàn phím máy tính. Phương án Pinyin Hán ngữ trở thành công cụ ghi âm chữ Hán thuận tiện, năm 1982 được công nhận là Tiêu chuẩn quốc tế ghi âm Hán ngữ (ISO 7098), góp công đầu cho việc quốc tế hóa Hán ngữ. TQ hiện áp dụng chế độ gọi là “Song văn”, tức đồng thời sử dụng chữ Hán và chữ Pinyin Hán ngữ; chữ Pinyin không phải là loại chữ mới, chỉ là công cụ biểu âm có tính hỗ trợ nhằm bù đắp khiếm khuyết của chữ Hán là nhìn chữ mà không đọc được âm. Học sinh tiểu học phải học chữ Pinyin Hán ngữ trước khi học chữ Hán. Hầu hết dân TQ hiện đã nắm vững “Song văn”, sử dụng thành thạo chữ Pinyin Latin trên máy tính và smartphone.

Tuy vậy các cải tiến trên vẫn chưa khắc phục được những nhược điểm lớn của chữ Hán như số lượng chữ quá nhiều không ai có thể nhớ hết; chữ đồng âm, chữ đa âm quá nhiều gây nhầm lẫn khi sử dụng; khó có thể tạo ra chữ mới… Ngoài ra một số người TQ chưa tán thành chữ giản thể. Người Đài Loan chưa chấp nhận các cải cách chữ Hán do đại lục TQ thực hiện. Chữ Hán vẫn khó quốc tế hóa, cản trở nâng cao sức mạnh mềm của TQ. Ví dụ chữ Hán được 20% nhân loại sử dụng nhưng tỷ lệ dùng để soạn văn bản ở Liên Hợp Quốc lại dưới 1%, kém xa Anh ngữ (80%). 15 năm qua TQ mở cả nghìn viện và lớp Khổng Tử dạy Hán ngữ miễn phí trên toàn cầu nhưng hiệu quả thu được còn là dấu hỏi.

Các cải cách chưa đạt yêu cầu của Chủ tịch Mao: Phải đi theo phương hướng chung của chữ viết thế giới là pinyin hóa. Lý do: các nghiên cứu cho thấy đi theo hướng đó sẽ thất bại. Rốt cuộc dự án “Latin hóa chữ Hán” đã bị gác lại, tức không còn đặt vấn đề thay chữ Hán nữa  – đây được coi là một tiến bộ [SĐD tr.626]. Từ 16/12/1985 Ủy ban Cải cách chữ viết đổi tên thành Ủy ban Công tác ngôn ngữ chữ viết, từ 1998 đưa về Bộ Giáo dục, quyền lực thu hẹp.


Chữ Hán từ khi mới ra đời đã bị thần thánh hóa, sùng bái, được coi là kết tinh của văn minh Trung Hoa. Tranh lụa về Phục Hy, người được cho là phát minh ra chữ viết ở TQ. Nguồn: wikipedia.

Tóm lại, chữ Hán sau nhiều thăng trầm về cơ bản vẫn giữ nguyên vai trò cũ. Cải cách chữ Hán đành dừng lại ở mức chấp nhận chế độ “song văn” chắp vá; từ nay trở đi người TQ tiếp tục dùng chữ Hán với các cải tiến đã được luật hóa.

Có lẽ hiện nay TQ đã không còn cơ hội thay chữ Hán. Họ bắt đầu cải cách chữ viết quá muộn, giả thử có tạo ra một loại chữ mới thì cũng khó làm cho 1,5 tỷ người chấp nhận sử dụng, bởi lẽ họ đã quen dùng thứ chữ tổ tiên để lại từ mấy nghìn năm trước.

Nhưng các nước thuộc vành đai Hán ngữ lại sớm mạnh dạn cải cách chữ Hán. Thế kỷ XII, Việt Nam phát triển chữ Hán thành chữ Nôm ghi được tiếng mẹ đẻ, làm nên nền văn học tiếng Việt rực rỡ một thời. Thế kỷ XV người Triều Tiên sáng tạo hệ chữ Hangul có tính biểu âm thay cho chữ Hán. Thế kỷ VIII người Nhật làm ra hệ chữ Kana biểu âm, nhờ thế giảm được 5/6 số chữ Hán cần dùng (còn 1850 chữ). Cuối thế kỷ XIX họ lại đi đầu hiện đại hóa Hán ngữ3. Thiết nghĩ hiện nay do người TQ đã quen dùng chữ Pinyin Latin, nên họ có thể áp dụng kinh nghiệm của Nhật là dùng thật nhiều từ ngoại đã quốc tế hóa thay cho chữ vuông, ví dụ computer, internet, fan, v.v… như vậy có thể giảm lượng chữ Hán và lượng chữ/từ đồng âm, đa âm.

 

Chữ biểu ý thích hợp với Hán ngữ

 

Kết quả cải cách chữ viết ở TQ cho thấy Chữ biểu ý là loại chữ viết thích hợp với Hán ngữ; mọi loại chữ biểu âm đều không thích hợp.

Tuy vậy giới NNH TQ chưa ngừng tranh cãi. Phái theo “Thuyết chữ Hán ưu việt” vẫn đòi “sửa sai” các cải cách chữ Hán… Đúng là còn quá nhiều vấn đề cần bàn. Từ góc nhìn của người sống trong môi trường chữ viết Việt Nam giàu tính biểu âm, chúng tôi thiết nghĩ chính là do có tính biểu ý mà chữ Hán thích hợp với Hán ngữ – vấn đề này xem ra cần nhấn mạnh. Thậm chí có nhà NNH TQ nói chữ Hán là chữ biểu âm! Phải chăng họ ngại chữ Hán bị gọi là “chữ biểu ý”, loại chữ bị coi là lạc hậu? Ví dụ Tằng Tính Sơ nói“Xưa nay chưa từng có loại chữ viết nào thực hiện được chức năng nhìn chữ mà biết âm đọc của chữ” [SĐD tr.597]. Nhận xét này vơ đũa cả nắm hạ thấp năng lực biểu âm của chữ biểu âm, như thế là không đúng. Chữ Quốc ngữ Việt Nam nói thế nào viết thế ấy, bất cứ âm tiếng Việt nào cũng viết được thành chữ, nhìn chữ là đọc được âm.         

Có nhiều trở ngại lớn về mặt tâm lý, xã hội, lịch sử cũng như về NNH khiến cho hiện nay không thể nào sửa chữ Hán thành chữ biểu âm. Dưới đây chỉ bàn về mặt NNH.

Trở ngại không thể vượt qua là chữ Hán có quá nhiều chữ đồng âm. Đây là hậu quả của tình trạng Hán ngữ có quá ít âm tiết – vấn đề này chưa được bàn nhiều. Âm tiết (syllable) là đơn vị kết cấu tự nhiên nhất trong ngữ âm, là đơn vị phát âm ngắn nhất. Hán ngữ, Việt ngữ là ngôn ngữ đơn âm tiết, mỗi từ chỉ có một âm tiết, tức mỗi âm tiết là một từ. Anh, Pháp, Nga ngữ… là ngôn ngữ đa âm tiết cho nên hầu như không có vấn đề từ đồng âm.

Thống kê chữ đồng âm khác nghĩa trong Tự điển Tân Hoa bản thứ 10, chúng tôi thấy 10.000 đơn tự trong sách chỉ có cả thảy 415 âm tiết (không xét thanh điệu), trong đó 22 âm tiết có 1 chữ4; còn lại 393 âm tiết có nhiều chữ khác tự hình, khác nghĩa. Tổng số chữ Hán khoảng 80-100 nghìn; đem chia cho 393, suy ra mỗi âm tiết có hàng chục chữ đồng âm. Như [yi] có 135 chữ, [xi] – 123, [ji] – 122, [yu] – 118, [fu] – 98… Nếu dùng “Từ Hải” để thống kê, do sách có gần 20 nghìn đơn tự nên riêng âm [yì] (thanh điệu huyền) đã có 195 chữ đồng âm [SĐD tr.442]. Thật bất tiện khi nghe hoặc khi đánh máy một âm [yì], phải từ 195 chữ chọn ra một chữ cần thiết.   

Nhiều chữ đồng âm dẫn đến nhiều từ đồng âm. Như các từ chính thị, chính thức, chính sự, chính thất,… đều cùng một âm [zhèng shì]; từ công kíchcông kê (gà trống) cùng âm [gong ji]; âm [mủ ji] có thể hiểu là gà mái hoặc gà trống; tên các loài vật tê giác, đỉa, dế, đều cùng âm [xi]… Chữ/từ đồng âm quá nhiều làm cho khi nghe thì dễ hiểu nhầm, khi viết thì dễ viết sai. Có khi người nói buộc phải viết ra chữ cho người nghe xem thì mới hiểu; như khi nói tên người tên đất.         

Giả thử sửa chữ Hán thành chữ biểu âm thì khi đọc chữ sẽ lẫn lộn các khái niệm cần diễn tả. Triệu Nguyên Nhiệm từng viết một đoạn “kỳ văn” gồm 95 chữ Hán5, tất cả đều đọc cùng một âm [shi]; nhìn chữ Hán thì có thể hiểu nhưng nếu nghe đọc thì sẽ chẳng thể hiểu gì; khi nhìn chữ Pinyin Latin cũng vậy, vì tất cả đều viết bằng một từ shi.

Ngoài ra chữ Hán còn có nhiều chữ đa âm đa nghĩa, nhìn chữ không biết đọc theo âm nào, hiểu theo nghĩa nào. Có chữ đọc theo 5 âm! Chữ đa âm chiếm khoảng 10% tổng số chữ Hán, chiếm 17% trong 2000 chữ thường dùng. Chữ biểu âm không có vấn đề rắc rối này.

Thực ra ngôn ngữ nào cũng có từ đồng âm, bởi lẽ số lượng ngữ âm mà thanh quản con người phát ra được là có giới hạn, trong khi số lượng từ cần dùng lại nhiều hơn; nếu từ đồng âm ít thì có thể phân biệt theo ngữ cảnh; nếu quá nhiều thì khó phân biệt.

Nói cho đến cùng, chữ/từ đồng âm quá nhiều hoặc âm tiết quá ít cũng chẳng phải là lỗi của Hán ngữ. Thiển nghĩ vấn đề này liên quan tới cấu tạo thanh quản của người Hán: Không rõ vì sao họ không phát âm được một số âm và âm tiết, như âm “b”, “đ”, “v”, “r” rung, “ng”, “nh” v.v… cùng nhiều âm tiết có trong ngôn ngữ khác. So sánh lượng âm tiết trong hai ngôn ngữ đơn âm tiết là Việt ngữ và Hán ngữ cho thấy, ở các âm tiết bắt đầu bằng âm a, Hán ngữ có 5 (a, ai, an, ang, ao), Việt ngữ có 29 (kể cả âm tiết bắt đầu bằng âm ă, â); âm tiết bắt đầu bằng âm o: Hán ngữ có 2, Việt ngữ có 32 (kể cả ô, ơ)…

Hiện chưa có số liệu chính thức về tổng số âm tiết của tiếng Việt. Theo Luong Hieu Thi’s blog, tiếng Việt có 17.974 âm tiết6. Do giàu âm tiết nên tiếng Việt hầu như không có vấn đề từ đồng âm. Hán ngữ vì quá nghèo âm tiết nên có nhiều chữ/từ đồng âm; chỉ chữ biểu ý mới phân biệt được ý nghĩa của các chữ/từ đó. Ít âm tiết có thể do người Hán thời xưa ít đi lại, ít giao tiếp; chính quyền lại chủ trương đóng cửa đất nước. Nhật là đảo quốc giữa biển, thời xưa ít giao tiếp với các nước khác nên tiếng Nhật cũng rất ít âm tiết; cho tới nay họ chưa bỏ được chữ Hán biểu ý. Tiếng Hàn cũng ít âm tiết do đó tuy đã dùng chữ Hangul biểu âm nhưng vẫn phải dùng thêm chữ Hán để ghi chú khi viết các từ ngữ cần độ chính xác cao, như khi viết văn bản pháp lý, viết danh từ riêng, ví dụ tên họ trong thẻ căn cước.

Phải chăng có thể tạm kết luận: Ngôn ngữ có nhiều âm tiết thì thích hợp dùng chữ biểu âm; ngôn ngữ có quá ít âm tiết không thích hợp dùng loại chữ này. Cải cách chữ viết phải làm rất sớm, từ khi nó chưa chín muồi và cần hàng trăm, hàng nghìn năm.

Dựa vào lý lẽ trên có thể giải thích vì sao tổ tiên người TQ tạo ra loại chữ viết biểu ý để ghi Hán ngữ; vì sao chữ Hán không tiến hóa thành chữ biểu âm như các chữ viết khác; do đâu không thể thay chữ Hán bằng loại chữ biểu âm. Cũng vậy, có thể hiểu vì sao chữ Hán tuy từng là chữ viết chính thức của nước ta suốt 2000 năm song không thể nào ghi được tiếng Việt giàu âm tiết.

 

Lời kết

 

– Chữ Hán có tính biểu ý, vì thế thích hợp với Hán ngữ ít âm tiết và nhiều phương ngữ.

– Do xa rời nhân dân, chữ Hán thời cổ không tiến hóa thành chữ biểu âm; ngày nay chữ Hán không còn cơ hội biến đổi căn bản. Nếu muốn biến đổi thì phải cải cách Hán ngữ.

– Các cải cách chữ Hán TQ đã thực hiện và việc sử dụng chế độ Song văn là hợp lý.

– Các nhược điểm về mặt NNH chứng tỏ Thuyết chữ Hán ưu việt không có cơ sở tồn tại.

– Nhận định “Chữ Hán là báu vật của văn minh cổ đại lại là gánh nặng của văn minh hiện đại” là hợp lý; người TQ có đủ ý chí và sức mạnh để giảm tác động tiêu cực của gánh nặng ấy.

 

Ghi chú:

 

[1] 苏培成著 “二十世纪的现代汉字研究”。书海出版社2001.8. Tác giả  Tô Bồi Thành. Nxb Thư Hải, 8.2001, sau đây ký hiệu là SĐD (Sách đã dẫn). 
[2] Từ tiếng Việt “ngôn ngữ” ứng với từ chữ Hán “语言 (ngữ ngôn)”, khác nghĩa với “言语 (ngôn ngữ)”;  từ “chữ viết” ứng với “文字 văn tự”.
[3] http://tiasang.com.vn/-van-hoa/Tan-man-doi-dieu-ve-chu-Han-10194
[4] http://nghiencuuquocte.org/2017/08/16/ve-nan-say-dam-chu-tau 
[5] http://nghiencuuquocte.org/2017/02/07/nguoi-nhat-phat-trien-han-ngu-hien-dai
[6] Đó là 22 âm tiết: [chua], [dei], [den], [dia], [ei], [eng], [fo], [gei], [hm], [hng], [kei], [lia], [lo], [neng], [nin], [nou], [nuan], [ri], [sen], [seng], [shei], [zhei]. 
[7] “施氏食狮史, Chuyện ông Thi ăn sư tử”, tên gốc “石室施士食狮史” (Story of Stone Grotto Poet: Eating Lions”) công bố tại Mỹ năm 1930, có ghi trong Encyclopedia Britannica.   石室诗士施氏,嗜狮,誓食十狮。施氏时时适市视狮。十时,适十狮适市。是时,适施氏适市。施氏视是十狮,恃矢势,使是十狮逝世。氏拾是十狮尸,适石室。石室湿,氏使侍拭石室。石室拭,氏始试食是十狮尸。食时,始识是十狮尸,实十石狮尸。试释是事。 
[8] All syllables in Vietnamese language.  (http://www.hieuthi.com/blog/2017/03/21/all-vietnamese-syllables.html). Mạng hoctiengnhatcungakira.wordpress.com  cho biết Anh ngữ có 15.831 âm tiết, Nhật ngữ có 112 âm tiết.

 

Tác giả

(Visited 28 times, 1 visits today)