Mỗi ngôi làng – Một tiểu quốc gia (kỳ 1)

Đối với người Ba Na, làng là đơn vị xã hội cao nhất. Bên dưới làng không có gì nữa, không còn có gì thấp hơn làng. Không có đơn vị xã hội nào nữa. Cá nhân không phải là một đơn vị xã hội, nó hòa tan trong làng, tự đồng nhất với làng, đồng nhất số phận của mình với số phận của làng.

Năm 2008 tôi có tham gia việc xuất bản sách Rừng người thượng của Henri Maitre, viết năm 1912, được coi là công trình khảo sát Tây Nguyên công phu và toàn diện nhất cho đến tận ngày nay. Sách do Viện Viễn Đông bác cổ ở Hà Nội phối hợp với Nhà xuất bản Tri thức ấn hành. Người dịch là Lưu Đình Tuân, tôi nhận phần hiệu đính và viết “Phàm lệ”. Có một Ban khoa học được thành lập để xử lý những vấn đề khoa học liên quan đến việc dịch và in sách. Chúng tôi gặp ngay một vấn đề: trong nguyên bản tiếng Pháp, sách có tên là  Les jungles moi, có thể dịch là  Rú mọi hay Rừng mọi. Ban khoa học cân nhắc, thấy để từ mọi ngay trên bìa sách sẽ dễ gây sốc, nên quyết định bản dịch ra tiếng Việt sẽ có tên trên bìa là  Rừng người thượng; tuy nhiên bên trong sách thì giữ nguyên từ mọi đúng như nguyên bản, và sẽ nói rõ lý do trong “Phàm lệ”. Được giao giải thích điều này trong “Phàm lệ”, tôi đã viết rằng theo tôi từ mọi vốn ban đầu không hề có ý nghĩa xấu. Nó bắt nguồn từ từ tơmoi trong tiếng Ba Na, có nghĩa là khách. Tôi đã biết từ này khi sống ở vùng Ba Na. Cẩn thận, tôi tìm tra thêm Từ điển Ba Na – Pháp của Guilleminet; theo Guilleminet tơmoi được dịch sang tiếng Pháp có các nghĩa sau: hôte (khách), invité d’un autre village (khách được mời từ một làng khác đến), étranger (lạ, người lạ), ennemi (thù, kẻ thù), pays étranger (nước khác, ngoại quốc). Những người phương Tây đầu tiên lên Tây Nguyên là các linh mục Thiên chúa giáo; khi bị Triều đình nhà Nguyễn truy đuổi, họ tìm đường lên vùng cao nguyên miền Tây để tránh khủng bố, và truyền đạo vào người bản địa nhằm xây dựng cơ sở lâu dài. Sau nhiều nỗ lực thất bại, họ đến được vùng người Ba Na ở Kontum, lập xứ đạo Kontum, là xứ đạo Thiên chúa giáo đầu tiên tại đây, đến nay vẫn là xứ đạo Thiên chúa lớn nhất và quan trọng nhất ở Tây Nguyên. Bấy giờ những người Ba Na Kontum đến gặp các nhà truyền giáo thường xưng là  tơmoi, là  khách. Các nhà truyền giáo lại hiểu rằng đấy là họ tự giới thiệu tên tộc người của họ. Về sau dần dần tiền tố tơ bị rớt đi, còn lại moi, moi nghiễm nhiên trở thành tên gọi người bản địa. Người Pháp gọi là  moi, người Việt gọi là  mọi, hoàn toàn là một danh xưng. Mọi chỉ mang ý nghĩa xấu khi quan hệ giữa người Việt với người bản địa Tây Nguyên nhuốm màu sắc khinh miệt, và ghép với rợ là từ Hán Việt thành mọi rợ… Khi Rừng người thượng ra đời, đọc “Phàm lệ”, một số nhà dân tộc học ở Hà Nội bảo rằng tôi là người duy nhất giải thích nguồn gốc của từ mọi như vậy. Họ có một giả thuyết khác, theo họ mọi bắt nguồn từ từ mol trong tiếng Mường có nghĩa là người. Tôi không phải là nhà dân tộc học hay nhà ngôn ngữ học, tôi chỉ xin nêu câu hỏi: nếu mọi xuất phát từ từ mol của người Mường, một tộc người sống ở phía Bắc, thì tại sao các tộc người thiểu số miền núi như Tày, Nùng, Dao, Thái, Lô Lô, Sán Dìu, v.v. cùng sống ở phía Bắc, gần người Mường hơn nhiều, ít nhất về địa lý, không bao giờ được gọi là  mọi, mà chỉ có các tộc người bản địa Tây Nguyên xa tít ở phía Nam mới mang tên mọi?

Tôi đọc Người Ba Na ở Kontum từ mấy chục năm trước. Như ta đều biết, khi đó nó có tên nguyên gốc là  Mọi Kontum. Khi được Viện Viễn Đông bác cổ ở Hà Nội phối hợp với Nhà xuất bản Tri thức tái bản năm 2011, nó cũng có một Ban khoa học, và cái ban ấy cũng gặp vấn đề đúng như ở Rừng người thượng sáu năm trước. Mọi Kontum được đổi tên thành Người Ba Na ở Kontum. Lần này tôi cũng được tham gia Ban khoa học nhưng không phải viết giải thích gì trong “Phàm lệ” nữa, vì đã có hai người đầy đủ uy tín về thực tế và khoa học hơn tôi rất nhiều trả lời, từ năm 1937, nghĩa là trước đấy đến những… 74 năm. Đó là Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi, hai nhà dân tộc học “tài tử” mà cực kỳ tài năng. Ngay trong tác phẩm Mọi Kontum của mình, đặc sắc đến mức ngày nay đọc lại không khỏi khiến chúng ta kinh ngạc, các ông đã bày tỏ ý kiến về chuyện này. Các ông viết như sau ở một chú thích đầu chương Nhân dân: “Chữ ‘Mọi’ ở đâu ra? Xét trong tiếng nói của người Ba-na có tiếng ‘tơmoi’ nghĩa là khách. Người Ba-na dùng tiếng ấy để chỉ những người làng khác hoặc bộ lạc khác đến làng hoặc bộ lạc mình. Ví dụ người Gia-rai hoặc Xơ-đăng đến xứ Ba-na thì người Ba-na kêu là tơmoi Gia-rai, tơmoi Xơ-đăng nghĩa là khách Gia-rai, khách Xơ-đăng. Người Annam đến xứ họ, họ cũng kêu là tơmoi. Vậy theo thiển kiến chúng tôi thời tiếng mọi có lẽ ở trong tiếng tơmoi của người Ba-na mà ra, chứ không phải một tiếng mà người Annam đặt ra để chế nhạo giống người ở trên rừng núi, như nhiều người nói. Có lẽ khi người Annam mới giao thiệp với người Ba-na, thường nghe những thứ tiếng tơmoi Gia-rai, tơmoi Xơ-đăng, v.v…, bèn bắt chước mà nói theo. Lần lần lại bỏ tiếng ‘tơ’ mà chỉ giữ lấy tiếng ‘moi’ (vì tiếng mình là tiếng độc âm). Sau lâu ngày tiếng ‘moi’ hóa ra một tiếng chỉ tên chung cho cả dân thổ trước ở trên rừng về phía Nam, cũng như những tiếng ‘Mán, Mường’ ở ngoài Bắc. Hai tiếng này cũng là tiếng của thổ nhơn mà ta dùng theo. Còn như ngày nay người Annam dùng những tiếng: Moi, Mán, Mường để chỉ người hoặc việc có tính chất khờ dại thì không khác chi người Pháp dùng tiếng ‘chinaaoiserie’ để chỉ những việc kỳ quặc khó hiểu1.

Mấy mươi năm trước đọc Mọi Kontum, tôi đã không chú ý đến chú thích này, chỉ rất thích thú với những khảo sát chính xác, tỉ mỉ và mô tả hết sức sống động của các tác giả về người Ba Na, xã hội và đời sống của họ. Ngày nay đọc lại Người Ba Na ở Kontum, gặp chú thích này, tôi mừng thấy hai tác giả từng trải có ý kiến gần gũi mình về gốc tích từ mọi. Đúng ra sau khi đã tìm thấy gốc của mọi từ tơmoi, cách giải thích tiếp của hai ông có khác tôi: tôi cho rằng các giáo sĩ phương Tây là những người đầu tiên nhầm từ tơmoi ra moi, rồi mọi. Hai ông thì cho rằng chính những người Việt (bấy giờ là những thương lái đi buôn bán ở miền núi) nghe người Ba Na gọi người Gia Rai, Xơ Đăng… là  tơmoi, từ đó mà dẫn đến từ mọi… Nay nghĩ lại tôi thấy có lẽ cách giải thích của hai ông đúng hơn. Ở bản đồ Đàng Trong của Alexandre de Rhodes đã thấy ghi Ke Moi, Kẻ mọi, trên vùng đất nay là Tây Nguyên. Ta biết A. de Rhodes đến Đàng Trong sớm hơn thời gian các nhà truyền giáo bị Triều đình Huế khủng bố phải chạy lên vùng Ba Na ở Kontum. Rất có thể Rhodes bấy giờ ngồi ở Hội An, nơi ông làm chữ quốc ngữ, đã nghe những người thương lái Quảng Nam chuyên đi buôn ở miền thượng nói về vùng mọi trên các dãy núi phía Tây… Nhận xét của Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi, chỉ riêng về một chi tiết rất nhỏ là cách gọi tên người Tây Nguyên thôi, cho thấy các ông đã quan sát, suy nghĩ rất kỹ và có nhận xét rất tinh tế.

Tuy nhiên đối với từ tơmoi, vấn đề không chỉ có thế. Hãy trở lại với cách giải thích từ này của Guilleminet. Guilleminet dịch nó sang tiếng Pháp là  hôte (khách), invité d’un autre village (khách được mời từ một làng khác đến), tức rất thân thiện. Đồng thời ông cũng chỉ ra một nghĩa khác, hoàn toàn ngược lại: tơmoi cũng có nghĩa là  ennemi, thù, kẻ thù. Có điều gì chung giữa hai nghĩa trông chừng rất đối nghịch này? Có. Ấy là, và Guilleminet đã cũng chỉ ra: tơ moi còn có nghĩa, và hẳn đây là nghĩa gốc, căn bản của nó: étranger, lạ, kẻ lạ, (nước) lạ, (nước) ngoài. Trong tất cả các nghĩa khác nhau của tơmoi, khách, thù, đều có chung yếu tố này: lạ, ngoài, không phải mình. Đây chính là một khái niệm nhân sinh rất quan trọng trong quan hệ giữa những con người hay những tập đoàn người với nhau: khái niệm lạ, khác. Người lạ, người ngoài, người khác. Không phải ta, khác ta, ở ngoài ta. Khác ta có thể là bạn, cũng có thể là thù. Không thể không chợt nghĩ đến câu nói nổi tiếng của Jean Paul Sartre trong vở kịch Huis clos (Xử kín): L’enfer, c’est les autres, Địa ngục, ấy là kẻ khác. Đối với ta, kẻ khác là địa ngục. Trong một môi trường xã hội đạo đức nào đó, kẻ khác là hoàn toàn xa lạ, đối kháng, tăm tối, bất khả tri. Tất nhiên ta hiểu, đây là cái “ta”, cái “tôi” được định hình đến cao độ, đến tuyệt đối của phương Tây hiện đại… Người Ba Na, người Tây Nguyên cũng có một từ nhiều nghĩa để biểu hiện quan niệm này. Vậy quan niệm đó của người Tây Nguyên, người Ba Na là như thế nào? Có lẽ một trong những chương quan trọng nhất, hay và cũng thú vị nhất của sách Mọi Kontum là chương Hương thôn giao tế, trong đó hai tác giả nói về Làng Ba Na. Các ông viết, bỗng bằng một giọng khẳng định dứt khoát và hồ hởi: “Dầu to hay nhỏ, mỗi làng Ba Na là một tiểu quốc gia hoàn toàn độc lập, không phục tùng dưới quyền thống trị nào khác2. Chương này, ý tưởng này, khám phá này sẽ là trung tâm của toàn bộ công trình, những chương sau, cách này cách khác đều gắn với nó, tiếp tục triển khai, cụ thể hóa ý tưởng trung tâm đó. Các ông khẳng định: trong xã hội Ba Na, không có gì ở trên làng, làng không phục tùng quyền uy nào cao hơn chính nó. Đối với người Ba Na, làng là đơn vị xã hội cao nhất. Nhân đây cũng xin nói thêm, trong tất cả các ngôn ngữ của các tộc người Tây Nguyên, không tìm thấy từ chỉ đơn vị cao hơn làng (Trong tiếng Gia Rai có từ t’ring chỉ liên minh một số làng, nhưng đây chỉ là liên minh nhất thời khi có nhu cầu cùng đối phó với một thách thức nào đó; khi thách thức đó qua rồi thì t’ring cũng tan. T’ring không phải là một đơn vị xã hội, không có lãnh thổ và tổ chức hành chính tương ứng).

Nếu làng là đơn vị xã hội cao nhất, bên trên nó không còn có gì khác, vậy bên dưới nó thì sao? La cà trong các làng Kontum và sống cùng họ (sau đây ta sẽ nói về sự la cà độc đáo này), Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi kể cho chúng ta biết về cuộc sống thực của người Ba Na. Lời kể nhẹ nhàng, một cái nhìn vui vẻ và thân mật, một quan sát cứ như thoáng qua, nhưng lại chạm tới một tính chất sâu sắc, đến mức cơ bản của xã hội này. Các ông viết: “Bất luận là bà con hay người dưng, người Ba Na đã ở chung một làng thì họ đối đải (đãi) với nhau thân mật lắm. Lúc vui mừng, khi hoạn nạn đều cùng nhau san sẻ. Lại có một lối tình cảm liên lạc dân làng với nhau một cách huyền bí. Ngày nay còn thấy một đôi dấu vết. Ví dụ như trong làng có một đôi trai gái chưa thành vợ thành chồng mà ăn nằm với nhau thời cả làng đều bị lây jơlâm jơlu (ô uế về tinh thần). Tại sao vậy? Là vì người Ba Na coi xã hội mình như thân thể người ta. Mỗi cá nhân là một phần tử của đoàn thể cũng như ngũ quan tứ chi v.v… là phần tử của thân người. Nếu một phần tử phạm đều (điều) không tốt thời không khác gì đoàn thể phạm vào đều ấy và các phần tử khác phải chịu lây ảnh hưởng xấu.

Cũng bởi một lẽ đó mà một người ở đoàn thể này làm hại một người ở đoàn thể kia thời họ coi như cả đoàn thể trước làm hại đoàn thể sau. Cái thù riêng của mỗi người trở thành cái thù chung cả bọn và họ có thể rửa thù vào một phần tử nào bên nghịch cũng được không cần đợi người có lỗi…3.

Vậy đó, bên dưới làng cũng không có gì nữa, không còn có gì thấp hơn làng. Không có đơn vị xã hội nào nữa. Cá nhân không phải là một đơn vị xã hội, nó hòa tan trong làng, tự đồng nhất với làng, đồng nhất số phận của mình với số phận của làng. Một sự đồng nhất đến tuyệt đối, đến mức hễ một người đau, một người gây ô uế, thì cũng như một phần tử nào đó của “ngũ quan tứ chi” đau hay nhiễm độc, cả cơ thể tức cả làng đều đau, đều nhiễm độc. Đồng nhất đến mức khi một người, tức một phần tử của ngũ quan tứ chi bị xâm phạm thì tức cả làng bị xâm phạm, và trả thù vào bất cứ phần tử nào của ngũ quan tứ chi bên kia cũng được rồi! Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi dùng tính từ “huyền bí”4, nghĩa là nó, tức làng, yếu tố làng, tinh thần và cảm quan về làng, ăn rất sâu đậm, tận trong căn cốt của xã hội, trong máu thịt của từng con người, đến thành bản năng, bản chất, vượt qua cả ý thức. Cũng chính nó tạo nên sự gắn kết không gì lay chuyển được, sức mạnh bền vững và trường tồn của xã hội Ba Na.

Nhận ra một cách sâu sắc và sinh động tính chất này của xã hội Ba Na, từ đó hai tác giả mô tả và giải thích rất thuyết phục một loạt hiện tượng xã hội lớn nhỏ ở đây. Chẳng hạn quan niệm của người Ba Na về luật pháp, về tội phạm và hình phạt. Như đã thấy, Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi nhắc đến khái niệm jơlâm jơlu, ô uế về mặt tinh thần5. Người Ba Na hết sức coi trọng jơlâm jơlu. Đối với người Ba Na, tội phạm là gì? Một hành vi bị coi là phạm tội khi nó gây ra jơlâm jơlu cho cộng đồng làng6. Cụ thể hơn nữa người ta nói rằng nó làm ô uế đất làng, ô uế môi trường sống của con người, ô uế tự nhiên nơi con người sống, tức là làng, bao gồm nơi cộng đồng làng cư trú và các loại rừng núi họp thành không gian làng (cái mà UNESCO đã rất tinh tế nhận ra khi công nhận di sản văn hóa thế giới của Tây Nguyên, không phải là cồng chiêng, cũng không phải là âm nhạc cồng chiêng, mà là không gian văn hóa cồng chiêng, tức không gian làng, với rừng của làng). Khi tự nhiên, tức không gian văn hóa, không gian sinh tồn ấy của con người bị ô uế thì dòng chảy vốn hài hòa của nó bị rối loạn, sẽ gây ra tai họa và đau khổ cho “ngũ quan tứ chi” của làng, của mọi con người, mỗi con người trong làng. Quan niệm về tội như vậy, nên quan niệm về hình phạt cũng khác thường. Khi tòa án của làng xử tội thì không phải nhằm trừng trị một cá nhân nào, mà mục đích quan trọng nhất và duy nhất là tẩy đi sự ô uế đã nhiễm lên làng, nhằm khôi phục sự trong sạch và dòng chảy hài hòa của tự nhiên. Cho nên, đúng như các tác giả Mọi Kontum nhận xét, tòa án làng bao giờ cũng đi đến hòa giải, cả làng cùng làm lễ xin lỗi các yang, tức xin lỗi tự nhiên. Đương nhiên người đã gây ra ô uế phải đóng góp nhiều hơn trong lễ hiến sinh tạ lỗi này. Và còn có điều quy định: sau đó, không ai được nhắc lại chuyện cũ nữa. Hài hòa được khôi phục hoàn toàn…7 Một nền tư pháp như vậy nhân bản, tốt đẹp biết bao. Chăm chú quan sát, trân trọng và không một chút định kiến, ngày ấy Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi đã phát hiện ra và ngạc nhiên vì tính chất nhân bản thâm thúy ấy, chân thành cảm phục một nền đạo đức xã hội, một nền văn minh cao đẹp đến vậy ở những con người vẫn bị coi là mọi rợ. Và đấy là động cơ chính của công trình đáng kinh ngạc hai ông để lại cho chúng ta ngày nay. 

Kỳ 2: Làng và rừng

—————————————————————-

* Tít phụ do Tia Sáng đặt

(1) Nguyễn Kinh Chi – Nguyễn Đổng Chi, Người Ba-na ở Kontum, in lần đầu do Mộng Thương Thư trai, Huế, 1937, dưới nhan đề Mọi Kontum. Viện Viễn Đông bác cổ Pháp Hà Nội dịch sang tiếng Pháp và phối hợp cùng NXB Tri thức in song ngữ, H, 2011; tr.137. Các trích dẫn sau đều dựa vào bản in lần này. Do trong bản gốc các tác giả diễn đạt bằng ngôn từ miền Trung, bản in 2011 tôn trọng cách viết đó, nên khi trích dẫn, chúng tôi giữ nguyên các dấu hỏi ngã khác biệt với cách viết phổ thông hiện nay.

(2) Nguyễn Kinh Chi – Nguyễn Đổng Chi, Người Ba-na ở Kontum, Sđd; tr.193.

(3) Nguyễn Kinh Chi – Nguyễn Đổng Chi, Người Ba-na ở Kontum, Sđd; tr.192.

(4) Nguyễn Kinh Chi – Nguyễn Đổng Chi, Người Ba-na ở Kontum, Sđd; tr.192.

(5) Nguyễn Kinh Chi – Nguyễn Đổng Chi, Người Ba-na ở Kontum, Sđd; tr.176, 182.

(6) Nguyễn Kinh Chi – Nguyễn Đổng Chi, Người Ba-na ở Kontum, Sđd; tr.192.

(7) Nguyễn Kinh Chi – Nguyễn Đổng Chi, Người Ba-na ở Kontum, Sđd; tr.192-201.

Tác giả