Nhà ở truyền thống Việt chỉ còn hoài niệm?

Đến cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21 với sự nóng dần lên của trái đất, vô số thiên tai như hạn hán, lụt lội, sa mạc hóa, ô nhiễm nặng nề môi trường sống... dẫn đến cái chết của hàng triệu người, con người mới hoảng sợ cảnh báo đến nguy cơ bất ổn nghiêm trọng của hành tinh chúng ta. Người Phương Tây luôn tự hào với nguyên tắc làm chủ, chế ngự thiên nhiên nay thấy rõ hơn ai hết sự cần thiết giảm nhiệt cho sự phát triển kinh tế quá nóng của họ và phải bàn đến, kêu gọi sự chung sống hoà thuận, nương vào thiên nhiên trong thuyết Tam tài của kiến trúc Á Đông.

Giảm sử dụng vật liệu nhân tạo như xi măng, thép, chất dẻo, hoá chất…, tận dụng vật liệu nguyên sơ như đá, đất, gỗ, tre…, tận dụng năng lượng mặt trời, năng lượng gió… người ta tái phát hiện và buộc phải phát triển đầy ý thức kiến trúc sinh thái.
Họ đang đề cập đến cái nguyên tắc sống mà người Việt chúng ta đã áp dụng, phát triển cực kỳ thành công từ cả ngàn năm nay trong kiến trúc, xây dựng.

Ông cha ta đã dựng, xây một ngôi nhà ở như thế nào?
Với hệ thống tự cung, tự cấp về kinh tế, người nông dân trước đây vốn sống trong các ngôi làng khép kín. Khi sinh con, người ta đã tính ngay nên trồng bao nhiêu cây xoan để đủ làm một ngôi nhà 3 gian hay 3 gian 2 chái lúc cho con lấy vợ sau 20 hay 25 năm. Vì kèo, đòn tay, rui mè đã có… Tre trồng quanh vườn. Gạch: Lấy đất từ ao hay ruộng rồi tự xây lò gạch để nung. Vôi thì lấy ở núi đá vôi hoặc mua. Gỗ xoan, tre trước khi đem xây được ngâm kỹ dưới bùn ao khoảng một năm để chống mối mọt. Rơm lợp nhà là rơm của nhà. Thợ: Người nông dân vốn tay phải cầm cày, tay trái cầm dùi đục, cưa của người thợ mộc hay cái bay của thợ ngõa. Người trong gia đình, bà con, láng giềng, mỗi người giúp một tay. Quan trọng nhất là có một người thợ cả biết chỉ huy với cái thước tầm kỳ diệu mà giản đơn. Ngay đến đầu thế kỷ 21 này, đa số thợ xây ở Việt Nam vẫn là người nông dân thuần phác cứ đến vụ gặt là kiểu gì họ cũng trở về lo thu hoạch lúa nhà mình.
Một ngôi nhà điển hình? Ta hãy nói về một ngôi nhà kẻ truyền vùng Bắc Ninh. Một ngôi nhà ở 3 gian, 2 chái rộng khoảng 70–80 m2 kể cả diện tích hiên phía trước. Cao từ nền đến nóc mái khoảng 7–7,5 m. Ấn tượng ban đầu là cái mái lợp ngói ta ngả màu rêu phong, ở giữa sống mái hơi thấp một chút rồi cong nhẹ, cao dần ở hai đầu đỉnh mái được gọi là réo làm cho cái mái nhà trở nên “mềm” hơn, “dẻo” hơn. Cả ngói chiếu, cả ngói lợp, lợp theo kiểu viên trên đè viên dưới thường dày tới 4 – 5 cm. Đó là lý do làm cho trong nhà luôn mát hơn nhiều so với bên ngoài trời. Bộ khung gồm cột cái, cột quân, cột hiên theo kiểu

Theo ý kiến của nhiều nhà chuyên môn về khảo cổ, kiến trúc, ngoài bằng chứng về hình hài các ngôi nhà trên trống đồng Ngọc Lũ thuộc nền văn hóa Đông Sơn, hay các mô hình nhà ở bằng đất nung được chôn trong các mộ Hán, gần đây nhất là việc phát hiện kết cấu nhà gỗ kiểu Hán có niên đại khoảng 2.000 năm ở Kiều Bồng, Quảng Nam thì những ngôi nhà ở kết cấu bằng gỗ như chúng ta biết hiện nay ở khắp Bắc, Trung, Nam có sự du nhập, giao thoa và Việt hoá mạnh mẽ kiến trúc Hán, sau đó kiến trúc Chăm khoảng 1.000 năm nay. Đáng tiếc, hiện những ngôi nhà ở bằng gỗ cổ nhất còn được lưu giữ chỉ có tuổi trên dưới 300 năm.

“thượng thu, hạ thách”, ở sát chân kê lên đá tảng hơi quýt nhẹ hình quân cờ, rồi xà thượng, xà đại, xà nách, thương lượng, chồng rường, kẻ nghé, kẻ truyền, bẩy, hoành, ngưỡng cửa… đều được để trần. Tất cả được ngàm vào nhau bằng mộng. Cả ngôi nhà dựng lên không cần tới một cái đinh. Khi cần, người ta có thể tháo rời ra để di chuyển… Tường nhà được xây bằng gạch đất nung dày khoảng 20 cm, mạch được để trần hay trát. Hướng nhà chính bao giờ cũng quay về phía Nam, Đông Nam để đón gió mát thổi từ hướng Nam nhất là khi nó đem được cái mát của hơi nước từ mặt ao trước sân vào nhà. Lưng nhà ở phía Bắc không có cửa, hai hồi có cửa sổ nhưng thường rất nhỏ để chống cái rét của gió mùa Đông Bắc. Ba gian chính để thờ, tiếp khách. Hai chái để ở, cất đồ gia dụng quý giá và để chứa thóc, gạo. Cái nhà phụ thường nhỏ hơn, mái lợp rơm dùng để làm bếp và nơi chứa công cụ nhà nông. Khi cần, chủ nhân có thể tháo các cánh cửa gỗ, nới rộng không gian từ nhà, qua hiên, đến tận sân thành một không gian mở phục vụ cả năm, bảy chục người ngày lễ lạt, hiếu hỉ.
Khu vườn bao quanh thường có hàng cau trước ngõ, những bụi chuối phía sau. Những ngôi nhà như vậy, những cái vườn như vậy, tạo nên những cái làng có luật, có lệ của nó như là một cơ thể sống thống nhất và đã tồn tại với lịch sử ngàn năm.
Ngôi nhà kết cấu gỗ cổ truyền Bắc Bộ với sự di dân thời Trịnh, Nguyễn phân chia. Sau đó là quá trình dựng nước, giữ nước đã phát triển với rất nhiều biến thể, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội ở từng vùng. Quy mô của ngôi nhà ở có từ 3 gian, 5 gian, 7 gian(*)… tùy theo vị trí quyền lực của chủ nhà. Nhưng tựu trung lại ta thấy 3 yếu tố nổi bật nhất của nhà ở cổ truyền ngoài bố trí chức năng sinh hoạt, ở, nằm ở hệ thống kết cấu của hệ khung chịu lực bằng gỗ, hình thức và vật liệu mái và vật liệu bao che tường.
Bộ khung chịu lực: Về cơ bản kết cấu khung gỗ chịu lực chính của ngôi nhà đều chống nhau, cái khác chủ yếu ở các biến thể vì kèo: như “vì kèo suốt giá chiêng”, “tiền hiên hậu khoáng”, “tiền kẻ hậu bảy”, “kẻ truyền giá chiêng”…
Nhà ở vùng Hải Hậu – Nam Định gần biển luôn phải đề phòng gió to, bão lớn nên với vì kèo 4 cột vẫn chồng rương nhưng thấp hơn. Nhà rường ở Quảng Trị và Huế, chịu ảnh hưởng của kiến trúc cung đình mà đặc trưng là hình dáng uốn cong có chạm trổ tinh xảo của “tréng” và “kẻ”. Dù là loại 3 hay 4 cột vẫn gây cho ta cảm giác nhà cao, thanh thoát, sang. Khác với vật liệu chính là gỗ xoan ở miền Bắc, bộ khung của nhà rường chủ yếu bằng gỗ mít…
Hình dáng và vật liệu mái: Cái đẹp và ấn tượng nhất về nhà ở truyền thống chính là cái mái. Ở  miền Bắc, sang nhất là nhà lợp ngói ta. Ngói lợp thường có đầu hơi nhọn. Ở Huế đa số nhà rường được lợp bằng ngói “liệt”, một thứ ngói phẳng vuông bốn cạnh dùng cho giới bình dân. Như đã nêu ngói ta hay ngói liệt thường được lợp rất dày, chống mưa, nắng, nóng cực kỳ hữu hiệu. Ở miền duyên hải có rất nhiều nhà lợp cỏ tranh hay cói: Mái dày tới cả 0,5 m. Vừa mát vừa chống được gió bão. Vùng trung du như Sơn Tây, Phú Thọ và miền núi Hòa Bình đa số mái nhà lợp lá cọ được ngâm kỹ trước khi đem lợp. Có nhà mái dày tới gần 40 – 50 cm. Đơn giản nhất, kinh tế nhất là mái lợp lá dừa nước ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long phù hợp với cuộc sống nước lên, thuyền lên, sống chung với lũ. Người Chăm còn có kiểu nhà hai mái chồng lên nhau rất độc đáo, có thể coi là một trong hình thức mái chống nóng điển hình nhất. Đẹp và hết sức ấn tượng là mái nhà Rông Tây Nguyên.
Về cái mái, kiến trúc sư Vũ Thái Lộc trong nghiên cứu thực tế của mình về nhà ở người Thái ở Tây Bắc Việt Nam đã ghi nhận hàng chục kiểu mái nhà khác nhau với vô số hình khau chút (Hoa nhà, tên gọi hình trang trí hai đầu hồi nhà người Thái đen).
Vật liệu bao che: Trước đây khi còn gỗ nhiều, có nhiều nhà thưng toàn vách gỗ. Nhưng đa phần vách bao che là tường trát, bùn rơm, gạch xây, đá ong, đất trình. Nói đến tường đất trình, người ta cần phải kể đến nhà ở cao 2 tầng như pháo đài của người Nùng ở Lạng Sơn.
Những biến cố lịch sử của ngoại xâm phương Bắc, cuộc kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ… đã hủy hoại rất nhiều di sản kiến trúc… Nhưng sự biến đổi nhanh chóng của kiến trúc nông thôn Việt Nam, đặc biệt là nông thôn miền Bắc chỉ trong vòng 20 năm trở lại đây làm cho chúng ta thực sự thấy sửng sốt. Nó dữ dội gần bằng cả ngàn năm lịch sử : Không quy hoạch, không quản lý, xô bồ, mạnh ai nấy làm miễn là có tiền, đâu có đất trống là xây… với đủ các kiểu nhà, kiểu mái, kiểu chóp, ăn cóp thô thiển các chi tiết kiến trúc Đông, Tây, Trung Cận Đông.
Hình ảnh kiến trúc nông thôn còn tồi tệ hơn bởi những âm thanh quá cờ đua công suất xem “dàn” nhà ai to hơn của đủ loại âm nhạc: rả rích tiền chiến, oai hùng nhạc đỏ, dữ dội của hard rock… Thêm vào dàn “hợp âm” đó là tiếng xe máy, tiếng xe công nông, chói tai mỗi khi tăng ga.

Tương lai nào cho nhà ở truyền thống Việt Nam?

 
Một ngôi nhà cổ trong bộ sưu tập của anh Lê Văn Vĩnh – Quảng Nam

Trong những năm qua, đặc biệt nhờ giá đất tăng đột ngột… rất nhiều người dân ở làng quê đã đổi đời. Chúng ta đang sống trong xã hội dân chủ? Dân thành phố có thể xây dựng được nhà 4 – 5 tầng với vô vàn cái chóp thì người nông dân có tiền có lý gì lại không được xây như vậy. Kết quả là ra đời một thứ kiến trúc hổ lốn. Đó là cái giá phải trả cho nền dân chủ. Khi mà đồng tiền không đi đôi với tri thức.
Engels cho rằng: “Nhà ở có thể giết chết con người”. Con người tạo nên kiến trúc đô thị, làng xóm và ngược lại kiến trúc lại ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống xã hội con người. Một khu dân cư được tổ chức tốt về quy hoạch, kiến trúc làm cho con người cảm thấy bình an, tự tin, thân thiện với nhau hơn. Ngược lại, ở bất kỳ nơi nào môi trường kiến trúc đô thị xô bồ, đua chen, vô tổ chức thì cư dân ở đó thường gặp phải rất nhiều vấn đề xã hội và cả hình sự.
Người ta nhận diện rõ hơn có sự liên quan giữa kiến trúc với đạo đức, xã hội.
Ở Hà Nội bạn có thể dễ dàng đặt mua một hay nhiều ngôi nhà sàn chủ yếu từ Hoà Bình đem đi dựng lên một cách kệch cỡm chủ yếu phục vụ cho mục đích thương mại. Bạn cũng có thể đặt mua ngay một vài ngôi nhà gỗ cổ truyền không thuộc dạng oách với giá hai mươi lăm hay ba mươi triệu đồng nếu bạn muốn.
Ở Huế, vài năm qua không ít nhà vườn bị đem bán vì chủ nhân cần tiền để tồn tại.
Thực tế ở miền Bắc ngày nay muốn đi xem một ngôi nhà ở cổ truyền có giá trị thực không dễ. Sự “đổi đời” làm cho giới trẻ coi ngôi nhà cổ và người ở trong đó đều là thứ “đồ cổ”.
Ở Hòa Bình, con em nhiều gia đình người Mường sau khi bán đất, bán nhà sàn đi vì ngượng ở trong nhà sàn liền xây nhà mái bằng, xây nhà kết cấu bê tông cốt thép với chóp và chóp mặc cho bố mẹ gần như không sống nổi trong cái kiến trúc xa lạc đó. Nhưng văn hóa, kiến trúc đích thực không dễ bị hủy diệt bởi sự ngu dốt của con người trong một sớm một chiều.
Ở Huế, tuy chậm nhưng UBND tỉnh vừa có quy định bảo tồn nhà vườn. Nhiều nhà rường vẫn được trân trọng gìn giữ như ở làng Phước Tích, Phong Điền cách Huế khoảng 30 km. Nhà cổ đá ong ở Đường Lâm được nhà nước xếp loại bảo tồn. Đã có cụ già dứt khoát từ chối không bán ngôi nhà gỗ cổ khoảng 300 tuổi với giá cả năm mươi ngàn đô la Mỹ, dù người mua hứa sẽ xây cho cụ một ngôi nhà mới y chang như ngôi nhà cũ làm con cháu cụ tham tiền đã tiếc ngẩn ngơ…
Vẫn còn đó một số người dứt khoát không đua đòi xây nhà khung bê tông cốt thép mà chọn thợ xây cho mình ngôi nhà ở theo kết cấu gỗ truyền thống có giá hàng trăm triệu đồng bằng gỗ xoan hay gỗ mít mang chở từ miền Nam ra.
Có rất nhiều khu Resort được thiết kế dựa trên nguyên tắc kết cấu gỗ của nhà ở cổ truyền. Đã có công ty chuyên tư vấn thiết kế nhà cổ. Có kiến trúc sư tự thiết kế, tự bỏ tiền xây dựng nhà sinh thái kết hợp được kết cấu khung gỗ nhà ở truyền thống Bắc Bộ, tận dụng vật liệu tại chỗ như đá, gạch đất nung, ngói ta với vật liệu hiện đại như kính cách âm, cách nhiệt, sử dụng Pin mặt trời Solar để đun nước nóng.
Trong bối cảnh nhà nước không có biện pháp cụ thể tích cực để gìn giữ vốn quý kiến trúc nhà ở truyền thống Việt Nam thì cái động thái trên đem lại cho mọi người một hi vọng nhỏ nhoi. Di sản kiến trúc của ông cha vẫn còn có người tâm huyết gìn giữ và phát triển, dù họ chỉ là thiểu số.

Lý Trực Dũng

Tác giả