Tìm kiếm danh phận (Tiếp theo và hết)
Nhìn từ góc độ văn hóa, việc tìm kiếm danh phận ở xã hội ta trong thời kỳ bao cấp không khác với truyền thống lịch sử bao nhiêu, bất chấp những khác biệt rõ rệt giữa ý thức hệ Nho giáo và ý thức hệ xã hội chủ nghĩa: việc ban phát danh phận là thuộc quyền của nhà nước.
Từ năm 1975 đến nay xã hội ta ở trong tình trạng hòa bình, nhưng những biến động của việc chuyển đổi mô hình từ bao cấp sang kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đã có những tác động sâu sắc đến đời sống tinh thần của dân chúng cũng như đến việc hình thành các giá trị văn hóa tương thích với cuộc sống đang biến đổi. Trong bài viết này tác giả không định đưa ra những nhận định về các biến đổi ấy vì hai lý do: thứ nhất đó là một chủ đề quá lớn đối với một bài viết ngắn, thứ hai là cần có thêm thời gian để cho những tác động của chúng tới đời sống văn hóa bộc lộ ra đầy đủ. Tác giả chỉ giới hạn trong xem xét một số tác động tới việc tìm kiếm danh phận.
Trước hết là việc hội nhập với thế giới khiến cho trong nhiều năm qua người dân đã có cơ hội đi ra nước ngoài tiếp xúc trực tiếp với các cư dân thuộc các nền văn hóa khác nhau, cũng như đón tiếp hàng triệu khách nước ngoài đến Việt Nam. Việc mở rộng giao lưu quốc tế ấy đã tác động không nhỏ đến thế giới quan của người Việt cũng như việc chọn lựa các giá trị văn hóa của họ. Vì vậy cần đưa ra vài nét về việc tìm kiếm danh phận trong các nền văn hóa lớn khác để đối chiếu. Rất tiếc vì hiểu biết hạn hẹp của mình tôi chỉ đưa ra nhận xét của riêng tôi về việc tìm kiếm danh phận trong nền văn hóa phương Tây mà thôi.
Theo hiểu biết của tôi, trong các xã hội dân chủ phương Tây thời nay quyền lực nhà nước đều chia tách thành các bộ phận khá độc lập với nhau: hành pháp, lập pháp và tư pháp. Với quyền tự do ngôn luận được đảm bảo, các phương tiện truyền thông đã phát triển tạo thành một quyền lực thứ tư nữa. Các hoạt động nghề nghiệp đều được vận hành theo quy định của pháp luật. Những người hoạt động nghề nghiệp đều thuộc một tổ chức nhất định như một cơ quan chính phủ, một doanh nghiệp, một đại học, một bệnh viện… Một tổ chức xã hội đương nhiên hàm ý một tôn ty thứ bậc nào đó cùng với một “luật chơi” nhất định mà những người tham gia tổ chức phải chấp nhận. Từ góc nhìn văn hóa – xã hội, mỗi nghề nghiệp tạo thành một giới xã hội: giới chính khách, giới công chức, giới đại học… Mỗi cá nhân tìm kiếm danh phận trước hết cần đến sự thừa nhận của những người cùng trong một giới nghề nghiệp. Nếu thành tựu của anh ta đủ to lớn, giới truyền thông sẽ khiến anh ta có danh phận xã hội nhất định. Cuộc tranh đua của các cá nhân tìm kiếm danh phận trong mỗi nghề nghiệp đều có sắc thái riêng, đôi khi rất khác nhau. Khốc liệt nhất có lẽ vẫn là cuộc tranh đua giành quyền lực chính trị của giới chính khách. Tuy nhiên, cuộc đấu đá chính trị ở các nước dân chủ chỉ giới hạn trong giới chính trị chiếm một thiểu số trong toàn thể dân chúng. Mặc dù việc tham gia vào giới chính trị luôn mở ngỏ cho mọi người, nhưng đa số người dân lại chọn lựa cho mình những hoạt động nghề nghiệp khác, vì những hoạt động nghề nghiệp khác ấy vẫn thỏa mãn được nhu cầu khẳng định danh phận xã hội của họ. Trong cuộc sống họ luôn phải đụng chạm với chính quyền và những xung đột ấy được giải quyết thông qua pháp luật. Việc tranh đoạt quyền lực chính trị không phải là con đường duy nhất khẳng định danh phận cá nhân. Quyền lực của ngay cả nguyên thủ quốc gia cũng bị giới hạn: một tổng thống không thể dùng uy thế của mình để khiến cho con mình được phong giáo sư ở trường đại học. Trong mỗi hoạt động nghề nghiệp cụ thể cũng chứa đựng cuộc tranh đua giữa các cá nhân để khẳng định danh phận theo những chuẩn mực đặc thù của mỗi nghề nghiệp. Các cuộc tranh đua ấy thường độc lập với giới chính quyền và mỗi cá nhân đều có thể tự do lựa chọn và thay đổi nghề nghiệp của mình. Điều quan trọng là xã hội văn minh hiện đại cung cấp cho con người cá nhân một phổ khá rộng rãi các hoạt động hữu ích để con người tự do lựa chọn theo đuổi cho phù hợp với cá tính của mình. Và một khi các quyền cơ bản của con người đươc pháp luật bảo hộ thì có thể con người cá nhân sẽ đặt câu hỏi cho mình: liệu tôi có nhất thiết phải khẳng định một danh phận nào đấy cho mình trong một giới xã hội nào đó hay không? Liệu tôi có thể lựa chọn cho mình một công việc mà tôi yêu thích và tôi làm việc vì sự yêu thích ấy chứ không để khẳng định một danh phận nào hết cả? Đây lại là một giá trị văn hóa khác mất rồi!
Bức tranh văn hóa-xã hội mô tả ở trên là tình trạng của xã hội văn minh dân chủ ở các nước phương Tây đã phát triển, dẫu trên thực tế vẫn tiếp tục nảy sinh các khó khăn và thách thức đòi hỏi được giải quyết. Xã hội văn minh không phải hình thành được trong một sớm một chiều. Quá trình hình thành của nó được xem như khởi đầu từ thời kỳ Phục hưng dưới tác động của vô số nhân tài hợp thành tầng lớp tinh hoa. Họ là những người sáng tạo, mải mê đi tìm các giá trị chân, thiện, mỹ để khẳng định danh phận của mình trong sự nghiệp rộng lớn của nhân loại, chứ không phải để có được danh phận do các vua chúa hay chính quyền nhà nước nào đó ban phát cho. Thời Khai minh họ cũng xung đột với các vua chúa chuyên chế. Cuộc xung đột ấy đã ảnh hưởng đến tâm trí của dân chúng, tạo ra nhiều biến đổi xã hội dẫn đến sự hình thành xã hội phương Tây ngày nay. Thời hiện đại họ tập hợp nhau trong các nhóm hội nghề nghiệp được hình thành từ những khuôn mẫu phường hội thời trung đại, tự nguyện tuân theo những nguyên tắc hoạt động nghề nghiệp bao gồm cả những giá trị đạo đức bất thành văn. Khi một cá nhân quyết định tham gia vào nhóm hội nghề nghiệp như thế, anh ta sẽ phải tuân thủ theo “luật chơi” của cộng đồng, bất kể động cơ tham gia của anh ta là tìm kiếm danh phận hay khao khát sáng tạo đơn thuần. Chẳng hạn như “luật chơi” bất thành văn của các nhà khoa học là “nghiêm cấm việc khiếu nại trong các vấn đề khoa học lên các lãnh đạo nhà nước hay viện đến sự ủng hộ của quần chúng đông đảo”. (19) Nhưng nghề nghiệp khoa học vẫn tạo cơ hội cho những người tìm kiếm danh phận được thỏa mãn nguyện vọng trong khuôn khổ của các quy tắc nghề nghiệp, thông qua các học hàm, học vị mà cộng đồng khoa học tự đặt ra cho mình.
Qua những gì được trình bày ở trên ta có thể thấy rõ sự khác biệt văn hóa trong tìm kiếm danh phận ở xã hội phương Tây và xã hội truyền thống ở nước ta. Sự khác biệt đó dẫn đến khác biệt về “tài phẩm” của giới tinh hoa. Xã hội chuyên chế kiểu phong kiến Trung Hoa với việc độc quyền ban phát danh phận của Triều đình đã không cung cấp được cho con người cá nhân một phổ rộng rãi các hoạt động hữu ích để anh ta lựa chọn khi muốn khẳng định danh phận cho mình, mà dồn ép mọi người vào con đường độc đạo thi đỗ – ra làm quan. Sự ganh đua khốc liệt trên con đường hẹp ấy dẫn đến thói đố kị và những thủ đoạn triệt hạ lẫn nhau làm tha hóa con người, rồi những hiện tượng nịnh hót triều đình, hối lộ mua danh phận, truy hại người có tài đều từ đó mà ra. Trước cái đám đông ồn ào “thơ ca trao đổi, khoe khoang tán tụng lẫn nhau”, trong lòng chỉ cốt mong sao được thánh thượng để mắt tới, thì việc những người có tư chất thanh cao, có nhân cách độc lập, chọn cho mình một xó riêng để sống một cuộc sống tự tại, ắt cũng là chuyện dễ hiểu.
Nhìn từ góc độ văn hóa việc tìm kiếm danh phận ở xã hội ta trong thời kỳ bao cấp không khác với truyền thống lịch sử bao nhiêu, bất chấp những khác biệt rõ rệt giữa ý thức hệ Nho giáo và ý thức hệ xã hội chủ nghĩa: việc ban phát danh phận là thuộc quyền của nhà nước. Các hội nghề nghiệp như hội nhà văn, hội toán học, hội nhạc sĩ…đều không hình thành tự phát mà do nhà nước lập nên. Các tổ chức nghề nghiệp như bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu, đoàn văn công…đều là cơ quan nhà nước, những người làm việc trong các tổ chức ấy đều là viên chức nhà nước được quản lý theo hệ thống “hành chính sự nghiệp”. Các hội đồng xét duyệt học hàm học vị cho các nhà khoa học hay xét duyệt danh hiệu “nghệ sĩ nhân dân”, “nhà giáo nhân dân” đều do nhà nước lập ra. Sự tương đồng ấy khiến cho hành vi tìm kiếm danh phận trong thời kỳ bao cấp rất ít khác biệt với truyền thống lịch sử. Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu đã nhận xét: “Khi cơ chế làm môi trường đó chưa thay đổi căn bản thì con người vẫn tự động thích ứng theo nó, sống theo mẫu người cũ, vẫn nghĩ, vẫn sống theo cách Nho giáo hóa”. (20)
Chuyển sang thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, các định chế văn hóa thuộc “cấu trúc thượng tầng” cho đến nay (2011) vẫn giữ theo nguyên mẫu thời bao cấp, hầu như không có gì thay đổi. Trong khi đó các thanh niên có học, sống ở các đô thị lớn, đã có nhiều tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Những người này tất yếu phải suy nghĩ về những khác biệt văn hóa trong việc tìm kiếm danh phận, đặc biệt là những người trẻ tuổi có tài, du học ở các nước Âu Mỹ trở về. Khác với các nhà Nho có tài trước đây băn khoăn về lẽ xuất xử, về chuyện “tùy thời co ruỗi”, nỗi băn khoăn của họ bây giờ có lẽ là chuyện “đi hay ở lại”. Tôi không có ý khẳng định môi trường văn hóa tìm kiếm danh phận ở phương Tây là tuyệt đối hoàn hảo. Lấy một trường đại học danh tiếng nào đó làm thí dụ: một vị giáo sư thành đạt nào đó đang đứng đầu một bộ môn; thời kỳ sáng tạo đỉnh cao của ông ta đã qua rồi, nhưng ông ta không muốn mất địa vị của mình, ông ta không hào hứng lắm với chuyện tiếp nhận một người trẻ có tài về bộ môn vì sợ anh ta có thể sẽ đoạt chiếc ghế của mình. Thế nhưng nếu ông ta không nhận người tài về bộ môn của mình, ông ta sẽ phải đối mặt với tình thế là thành tích khoa học của bộ môn sẽ kém đi so với các trường danh tiếng khác, ban lãnh đạo nhà trường sẽ không hài lòng với công việc của ông ta. Mặt khác, ông ta trong tư cách là nhà khoa học cần có đồng nghiệp tài giỏi hợp tác để thành công trong nghiên cứu, vì ông ta muốn khẳng định danh phận của mình trong giới chuyên môn. Những nhân tố tích cực ấy có thể giúp ông ta mong muốn tiếp nhận người tài về bộ môn của mình. Nhưng nếu ông ta có thể hối lộ ban lãnh đạo nhà trường để giữ được chiếc ghế của mình như là thứ mong muốn cao nhất, ông ta sẽ không tiếp nhận người tài. Lãnh đạo nhà trường có thể cũng thích nhận hối lộ, nhưng sẽ phải cân nhắc với hậu quả là nhà trường sẽ sa sút uy tín do không thu hút được nhiều nhân tài. Như vậy môi trường tìm kiếm danh phận trong giới khoa học có lành mạnh hay không phụ thuộc nhiều vào tình trạng đạo đức của cả giới, có nghĩa là các thành viên trong giới có xem danh phận hay tiền bạc là những giá trị duy nhất để theo đuổi bằng mọi thủ đoạn hay không. Tình trạng đạo đức của giới khoa học phương Tây không phải lúc nào cũng như nhau. Theo nhận xét của tôi nó đạt đỉnh cao vào thời của A. Einstein, khi mà giới tinh hoa vật lý học có thể nồng nhiệt tiếp nhận công trình của chàng thanh niên vô danh mới 26 tuổi là A. Einstein một cách phóng khoáng bất vụ lợi đến thế. Có thể là do tình trạng khủng hoảng của vật lý học vào lúc đó đã kích thích nhiệt tình nghiên cứu của các nhà vật lý lên đỉnh cao nhất, khiến cho họ dẹp đi mọi ham muốn nhỏ nhen của con người. Thời đại bây giờ e rằng không được như vậy.
Nếu như người trẻ có tài phải băn khoăn với chuyện đi hay ở, thì đối với người bất tài muốn tìm danh phận, cơ hội ở trong nước chưa bao giờ lại rộng mở cho họ đến thế. Cái học Tống nho thời xưa bị các cụ trong phong trào Duy tân chê bai là hư học, nhưng chế độ thi cử thời đó nghiêm khắc thế nào thì ít có ai dám phủ nhận. Thế nhưng hiện nay việc thi cử trong nước thật thê thảm: thi trượt trung học phổ thông trở thành chuyện hi hữu, chức danh giáo sư tiến sĩ cũng xuống giá rất nhiều, có in vào danh thiếp cũng chẳng gây ấn tượng cho ai được nữa. Những người tự cho mình là trí thức cũng như những người được dư luận xã hội xem là trí thức luôn than thở không được sử dụng, bày tỏ mong muốn được lắng nghe, được tham gia phản biện các công trình lớn. Những biểu hiện này nói lên thực trạng nào? Đối với tôi tình trạng này là chuyện khó hiểu vì cũng có thể được diễn giải rằng dân chúng ta nay đã quá giỏi, ai đi học cũng đỗ, rằng nhân tài trong nước quá dư thừa đến nỗi nhiều người không có cơ hội thi thố tài năng, chứ không còn hiếm hoi như thời xưa khiến nhiều ông vua phải xuống chiếu cầu hiền. Khổ một nỗi diễn giải như thế lại mâu thuẫn với tình hình những vụ bê bối xảy ra khắp nơi từ các công sở cho đến các doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường học, bệnh viện…
Tình cảnh trớ trêu này phải chăng có nguyên nhân từ nỗi ám ảnh xa xưa về danh phận của cộng đồng người Việt: luôn có mặc cảm bị coi thường, không được thừa nhận. Lòng khao khát muốn khẳng định mình trong con mắt của những người khác dường như vượt quá chừng mực của một nhu cầu văn hóa, lấn át những giá trị đạo đức cơ bản khác về phẩm giá con người, tạo ra những tính cách văn hóa tiêu cực khó bề khắc phục. J.S. Mill đã từng nhận xét về dân tộc có đam mê cai trị người khác mạnh hơn nhiều so với ham muốn độc lập cá nhân, ông gọi đó là dân tộc săn tìm địa vị. Đối với dân tộc như thế “ý tưởng ấp ủ của nền dân chủ chỉ thuần túy là mở cửa mọi công sở cho sự tranh đua của mọi người, thay vì của một ít người”.(21)
—
(20) Trần Đình Hượu, Đến hiện đại từ truyền thống, (NXB Văn hóa, in lần thứ hai, 1996) tr.10
(21) J.S. Mill, Chính thể đại diện, Nguyễn Văn Trọng và Bùi Văn Nam Sơn dịch, NXB Tri thức 2007, tr.145,146