Cái dụng của vô dụng là đại dụng

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, liệu chúng ta có cần phải xây dựng các ngành khoa học tự nhiên hay không? Để trả lời câu hỏi này thì trước hết lại phải trả lời một câu hỏi khác lớn hơn: chúng ta sẽ xây dựng một xã hội với định hướng giá trị văn hóa như thế nào trong bối cảnh quá trình toàn cầu hóa sẽ diễn ra mãnh liệt vào thế kỷ 21?

Các ngành khoa học tự nhiên (KHTN) là một sản phẩm du nhập từ nền văn hóa khác. Văn hóa truyền thống của chúng ta không tôn vinh các hoạt động tìm hiểu bí ẩn của thế giới tự nhiên. Chúng ta chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo, mà Khổng Tử thì không muốn bàn đến đề tài này, cho đó là chuyện quỷ thần, khuyên các học trò nên giữ thái độ “kính nhi viễn chi”. Đề tài đáng bàn cho người quân tử chỉ là chuyện nhân nghĩa, tu thân, tề gia, trị quốc… tức là các vấn đề triết lý nhân sinh. Đáng chú ý là những đề tài này cũng không giống các ngành triết học của phương Tây, vì nó không dựa vào hệ thống khái niệm và lô-gic như phương Tây. Ở đây tôi chỉ muốn lưu ý tới sự khác biệt Đông Tây mà chưa dám bàn đến chuyện hay dở.


Các dân tộc phương Đông chỉ bắt đầu quan tâm tới khoa học kỹ thuật phương Tây khi tiếng súng từ các

 

pháo hạm của bọn thực dân xâm lược nổ vang trên bờ biển của họ. Cuộc đụng độ Đông – Tây này dẫn tới làn sóng cải cách sâu rộng ở các nước phương Đông mà nội dung là xem xét lại nền văn hóa truyền thống để loại bỏ đi những gì hủ bại và học tập những gì là tinh túy của văn hóa phương Tây. Ở nước ta, phong trào này diễn ra vào nửa đầu thế kỷ 20. Rất tiếc là đối với KHTN chưa có sự xem xét nào đáng kể. Đại để chỉ là những lời kêu gọi học tập khoa học phương Tây để xây dựng đất nước hùng mạnh. Tâm thức phổ biến chỉ là nhìn thấy hiệu quả ứng dụng mà thấy cần thiết phải học tập và xây dựng ngành KHTN. Hoàn toàn ngược với văn hóa người phương Tây nghiên cứu cơ bản vì ham muốn hiểu biết và những ứng dụng kỹ thuật chỉ là hệ quả của những khám phá quy luật. Nhiều khi những ứng dụng lại bất ngờ ngay cả đối với người khám phá ra quy luật. Nhưng ở ta lại thường bắt buộc các nhà KHTN phải trả lời trước về những ứng dụng của đề tài nghiên cứu. Và trong dư luận xã hội lại cho rằng các KHTN của chúng ta chẳng làm được cái gì ra trò (lẽ dĩ nhiên có vấn đề: với điều kiện đã có, có thể tốt hơn hiện nay không? Nhưng đó không phải là đề tài của bài viết này). Sự thất vọng càng tăng thêm khi trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, người ta thấy rằng chỉ cần có tiền là có thể mua được các sản phẩm kỹ thuật cao mà chẳng cần đến các nhà KHTN: hệ thống điện thoại viễn thông ta có hiện nay là một ví dụ. Câu hỏi tiếp theo là: thế ta cần xây dựng ngành KHTN để làm gì? Một cách hỏi khác: liệu chúng ta có cần phải xây dựng ngành KHTN hay không? Để trả lời câu hỏi này thì trước hết lại phải trả lời một câu hỏi khác lớn hơn: chúng ta sẽ xây dựng một xã hội với định hướng giá trị văn hóa như thế nào trong bối cảnh quá trình toàn cầu hóa sẽ diễn ra mãnh liệt vào thế kỷ 21?

 

Theo sự hiểu biết của tôi thì nếu chỉ xuất phát thuần túy từ khía cạnh thực dụng, câu trả lời sẽ là: chúng ta có thể không cần. Nhiều người sẽ bảo: không được. Chúng ta bây giờ cần có điện, đường sá giao thông hiện đại, liên lạc viễn thông để có thể sản xuất hàng hóa xuất khẩu… những cái này liên quan đến KHTN… Đúng là những thứ đó liên quan đến KHTN, nhưng những thứ đó đều có thể mua được trong hoàn cảnh kinh tế toàn cầu hóa, nếu chúng ta có tiền. Vấn đề sẽ là: ta có thể làm ra tiền mà không cần xây dựng các ngành KHTN hay không? Hình như là có thể: những nước nhiều dầu hỏa đã làm như thế, nếu chúng ta ít dầu hỏa thì cũng có thể bán cà phê, hạt điều… xuất khẩu quần áo, giày dép… Bài toán kinh tế rất có thể có lời giải. Có người sẽ phản đối: chúng ta cần đào tạo kỹ sư, phải có giáo viên toán, lý, hóa… Thế nhưng vấn đề này cũng có thể giải quyết bằng tiền bạc. Vả lại, để có giáo viên dạy các môn đó không nhất thiết phải xây dựng các ngành KHTN với các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp.

Như vậy vấn đề sẽ quy về giá trị văn hóa: liệu chúng ta có muốn sống trong một xã hội có tiện nghi vật chất nhưng không có các nhà nghiên cứu toán học, vật lý… hay không? Tôi muốn lưu ý là chủ nghĩa thực dụng không phải chỉ ở phương Tây mới có như nhiều người lầm tưởng: thời xưa ở Trung Hoa, phái Mặc học đã từng cho rằng chỉ có những gì liên quan đến nhu cầu ăn và mặc của con người mới là quan trọng và coi thường tất cả những hoạt động văn hóa. Đã có tranh luận về dụng và văn. Về thái độ thực dụng thời hiện đại, tôi muốn trích dẫn nhận xét phê phán của một học giả Trung Quốc đương đại: “Lợi ích kinh tế dùng con số để diễn đạt quả thật rất có sức thuyết phục, nhưng con số đã che lấp các giá trị phán đoán. Rất nhiều tổn thất đều là vô hình, chúng ta không dễ nhìn thấy… Hiện đại hóa mà người Trung Quốc hiểu có thể đi theo những con đường khác nhau, nhưng mục đích chỉ có một: làm sao giành được lợi ích kinh tế một cách nhanh nhất”. Học giả này kêu gọi bảo vệ hình thái giá trị lý tưởng – cái đại dụng của cái tưởng như vô dụng.

Tuy nhiên tôi hoàn toàn không có ý cho rằng KHTN chỉ có ý nghĩa như một giá trị văn hóa mà xã hội có thể lựa chọn thoải mái, tựa như lựa chọn xem có nên phát triển môn bóng chày ở nước ta hay không. Việc xây dựng các ngành KHTN, trước hết là thể hiện sự tôn vinh một lĩnh vực hoạt động trí tuệ hữu dụng nằm trong mục tiêu phát triển toàn diện con người, sau nữa, đó là sự đầu tư chắc chắn cho tương lai của dân tộc. Thế kỷ 20 có thể cho phép nhiều nước giàu tài nguyên (như dầu hỏa) tạo nên mức sống vật chất cao cho xã hội, mà không nhất thiết phải có sự phát triển trí tuệ cao. Thế kỷ 21 chắc sẽ không có nhiều cơ hội như thế. Tôi tin rằng ở thế kỷ 21 chỉ có các cộng đồng có phát triển trí tuệ cao mới có tương lai. Việc xây dựng các ngành KHTN như là một nghề nghiệp của hoạt động trí tuệ hữu dụng chính là nhằm vào phát triển tố chất trí tuệ của cộng đồng. Ta có thể lấy nước Đan Mạch ở Bắc Âu làm thí dụ. Vào những năm 30, 40 của thế kỷ 20, đất nước nhỏ bé này đã có một nhà vật lý xuất chúng là N.Bohr. Đan Mạch thời đó đã trở thành nơi quy tụ các nhà vật lý tài năng khắp thế giới góp phần quyết định trong việc xây dựng nền móng của cơ học lượng tử. Viện nghiên cứu vật lý của N.Bohr ngày nay là di sản văn hóa mà người Đan Mạch rất tự hào. Không có bằng chứng nào về đóng góp trực tiếp của N.Bohr vào sự phồn vinh kinh tế của Đan Mạch ngày nay, nhưng liệu có thể phủ nhận những đóng góp vô hình của ông chăng? Tôi nghĩ đó chính là cái đại dụng của cái tưởng như vô dụng.

 

Nghiên cứu KHTN liên quan chặt chẽ đến trình độ trí tuệ của cộng đồng chẳng phải là điều gì mới lạ trong nhận thức của các nhà chuyên môn, song trong ứng xử thực tiễn, khía cạnh này thường ít được đặt ra, vì nó có vẻ hơi xa vời so với những yêu cầu cấp bách của những vấn đề kinh tế xã hội nóng bỏng đang thôi thúc hàng ngày. Phải chăng chính cách ứng xử như thế biểu hiện sự tiếp thu văn hóa đối với các ngành khoa học cơ bản vẫn chưa vượt ra ngoài khuôn khổ “Đông học vi thể, Tây học vi dụng” hồi đầu thế kỷ 20 ở Trung Quốc? Phải chăng  đó cũng là một nguyên nhân khiến cho ngay cả Nhật Bản cũng chưa hài lòng với các thành tựu nghiên cứu KHTN của mình, ít nhất cũng vì nó không tương xứng với các thành tựu kinh tế?

Những tiến bộ kỹ thuật mà KHTN và các ngành khoa học khác đem lại cho xã hội loài người lại tác động trở lại đối với các ngành khoa học cơ bản, khiến cho công việc nghiên cứu khoa học trở thành một nghề nghiệp chuyên môn mang tính xã hội rất cao: khoa học ngày nay không còn là công việc của một vài nhà khoa học xuất chúng nhằm thỏa mãn trí tò mò cá nhân. Khoa học đã trở thành một bộ phận hữu cơ của nền sản xuất hậu công nghiệp, được tổ chức, đầu tư và quản lý với quy mô lớn mang nhiều thuộc tính toàn cầu hóa. Định hướng ứng dụng được nhấn mạnh và tính chất lãng mạn của công việc nghiên cứu cơ bản cũng mất dần theo. Trong bối cảnh như thế thì việc thiết kế xây dựng các ngành KHTN ở nước ta như thế nào để nhanh chóng bắt kịp trình độ các nước tiên tiến là một vấn đề rất khó khăn. Theo tôi hiểu thì chúng ta đang ở giai đoạn xuất phát của một quá trình lâu dài mà hình như còn chưa có hoạch định nào cả.

Nguyễn Văn Trọng

Tác giả

(Visited 31 times, 1 visits today)