Chuyến đi lịch sử tới Trung Quốc của Kissinger
40 năm trước, một sự kiện quan trọng, gây ảnh hưởng lớn tới cục diện địa chính trị trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam, trong suốt một thời kỳ kéo dài tới tận ngày nay, đó là việc Mỹ bắt tay với Trung Quốc qua chuyến thăm của Nixon vào tháng 2/1972. Tia Sáng xin giới thiệu bài phỏng vấn của Mạng Truyền thông Công cộng (PBS) dành cho cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger, về những nấc thang dẫn tới chuyến đi lịch sử này của Nixon.
Henry Kissinger: Tôi được đọc về nó trong một văn bản ông ta viết gửi Bộ Ngoại giao, và Nixon nói về mở cửa theo nghĩa chung trong vòng ít tuần sau khi bắt đầu nhiệm kỳ, bởi vì ông ta nghĩ rằng giải pháp này có thể tạo sức ép lên Liên Xô và tác động theo hướng có lợi cho Mỹ trong cuộc chiến ở Việt Nam. Nhưng ý tưởng này không được xây dựng một cách thật cụ thể, chỉ là ông ta muốn làm như vậy mà thôi. Và chúng tôi không hề biết sẽ làm bằng cách nào và đâu là cơ hội thích hợp để tiến hành.
Có phải ông và Tổng thống quyết định giữ kín về chủ trương này trong phạm vi Nhà Trắng và Hội đồng An ninh Quốc gia?
Đầu tiên chúng tôi muốn giữ kín tất cả chuyện này trong phạm vi Nhà Trắng. Một là vì bối cảnh lúc ấy đang là đỉnh cao của phong trào phản đối như mọi thông tin chạy qua các quan chức đều bị rò rỉ. Hai là vì nhiều quan chức cho rằng Tổng thống không được ủng hộ. Ông là vị Tổng thống không chạy theo định hướng quan điểm của tờ New York Times. Hồi đó làm vậy chẳng khác gì chống lại tạo hóa. Ba là nhiều quan chức và nhiều nhà ngoại giao cho rằng mở cửa với Trung Quốc là vô cùng nguy hiểm. Chẳng hạn như sau này khi chúng ta đưa ra một vài động thái, như cho phép mua hàng Trung Quốc ở Hong Kong với giá trị dưới vài trăm USD, đã có tới bốn đại sứ cao cấp gọi điện thoại cho Tổng thống và cảnh báo rằng ông ta đang gây ra rủi ro không thể chấp nhận được vì có thể gây hiềm khích với Liên Xô. Vì những lý do này nên chúng tôi đã cố gắng giữ tương đối kín chủ trương mở cửa với Trung Quốc trong phạm vi Nhà trắng. Ấy là trong giai đoạn đầu.
Ông có thể mô tả Dubrinin1 đã nói gì về những thương vong khốc liệt xảy ra với những người lính Liên Xô tại biên giới với Trung Quốc? Và ý định của ông ta là gì?
Ban đầu chúng tôi phỏng đoán theo cách nghĩ truyền thống, rằng Trung Quốc rất cực đoan và vô cùng dữ dằn. Nhưng rồi một ngày Dubrinin tới và kể tóm tắt cho tôi về một cuộc đụng độ ở sông Yusuri, và nói về khả năng phối hợp giữa Mỹ và Liên Xô đưa tình huống này vào vòng kiểm soát, hoặc đưa mối nguy hiểm vào vòng kiểm soát. Sự kiện này thật không giống với tính cách thông thường của người Liên Xô chút nào, vì hiếm khi nào họ thông báo vắn tắt cho chúng ta biết về một mâu thuẫn giữa họ với một bên thứ ba, cũng hiếm khi ông ta [trong tư cách một đại sứ] có những hành xử vượt xa ra ngoài phạm vi chức trách của mình như vậy. Nếu tôi nhớ không nhầm thì tôi đã cố tình phản hồi một cách mập mờ để khiến ông ta phải lo lắng. Đến khi ấy, tôi vẫn cho rằng nhiều khả năng Trung Quốc là bên khởi động xung đột trước. Sau này ông ta tiếp tục quay lại hai hoặc ba lần để thông báo về những cuộc đụng độ khác. Chúng tôi đã đánh dấu lại những vị trí xung đột trên bản đồ. Ít tháng sau khi đến San Clemente, tôi đề nghị một người từ Tập đoàn Rand2 – có lẽ tên ông ta là Alan Whiting3, đến trình bày cho tôi nghe tổng quan về Trung Quốc. Ông này cho rằng Liên Xô là bên gây hấn chứ không phải Trung Quốc. Sau đó chúng tôi cùng nhìn vào những điểm được đánh dấu trên bản đồ, và nhận ra rằng tất cả các vị trí xung đột đều nằm gần đường xe lửa của Liên Xô, và cách xa đường xe lửa của Trung Quốc. Vậy là chúng tôi kết luận rằng có lẽ Liên Xô là bên gây hấn trước. Một khi suy nghĩ này đã hình thành trong đầu, chúng tôi kết luận rằng trong một cuộc va chạm giữa hai người khổng lồ của phía cộng sản, nguyên tắc để đảm bảo cân bằng – người Mỹ ít khi để ý điều này – đòi hỏi chúng ta phải hỗ trợ kẻ yếu chống lại kẻ mạnh hơn. Ở Anh lối suy nghĩ này không có gì là lạ, nhưng ở Mỹ người ta thường không xây dựng chính sách ngoại giao theo tư duy như vậy. Kể từ đó, chúng tôi bắt đầu tích cực khởi động và có những biện pháp để tìm cách liên hệ với Trung Quốc.
Ông hãy mô tả về lần liên hệ đầu tiên của đại sứ Stoessel4 với các nhà ngoại giao Trung Quốc.
Tôi hối thúc Stoessel tìm cách liên hệ. Nhưng ông ta không chịu làm, vì điều này không chính thống, và cũng nhạy cảm nếu [sau này] chạm mặt với nhóm vận động hành lang thân Đài Loan hoặc thân Trung Quốc ở Quốc hội, nên ông ta không muốn phải lãnh trách nhiệm dựa trên lời nói đơn phương từ một cố vấn an ninh [tức Kissinger]. Và ông ta cứ nghĩ rằng đây chỉ là ý tưởng của riêng tôi. Vậy nên tôi phải gọi ông ta về nước và dẫn ông ta tới gặp Tổng thống, rồi Tổng thống chỉ đạo ông ta làm đúng như điều tôi đã yêu cầu từ trước, đó là túm lấy một nhà ngoại giao cao cấp bất kỳ của Trung Quốc mà ông ta gặp được trong một dịp thông thường nào đó, và bảo với người đó rằng chúng ta muốn nói chuyện. Cuối cùng thì ông ta cũng tìm được một nhà ngoại giao Trung Quốc trong một cuộc trình diễn thời trang, và cái ông Trung Quốc này đã quá đỗi choáng khi thấy một người Mỹ tìm cách đến gần, nên đã tìm cách lảng đi chỗ khác. Thế nên Basil Stoessel, một trong những nhà ngoại giao tài ba nhất của chúng ta, bất đắc dĩ phải đuổi theo ông ta, dồn vào một góc để trao thông điệp, và cái vị Trung Quốc này chỉ nín thinh ghi nhận, rồi lại tiếp tục chạy đi. Sau đó vài tuần, trước sự kinh ngạc của Vacsava, và ngay cả đại sứ quán của ta cũng kinh ngạc khi người Trung Quốc gọi điện tới, nói rằng họ đang sắp đến và muốn được tiếp đón. Họ đến bằng cửa trước, với quốc kỳ cắm trên xe hơi, tức là theo cách công khai tối đa, và bắt đầu câu chuyện.
Việc Mỹ tấn công Campuchia ảnh hưởng tới việc đàm phán với Trung Quốc như thế nào?
[Sau cuộc gặp tại đại sứ quán ở Vacsava], thực tế là Trung Quốc đã báo với chúng tôi rằng họ muốn chúng ta gửi một phái viên tới Bắc Kinh. Khi đó Bộ Ngoại giao Mỹ cung cấp hai cuốn báo cáo lớn, một là về nội dung, hai là về quy trình. Cuốn về nội dung liệt kê ra tất cả mọi vấn đề cần quan tâm. Thực ra Nhà trắng khi ấy không hào hứng gì trong việc bàn về các vấn đề tuyên ngôn, tài sản, kiểm soát vũ khí, hay những câu hỏi về nghi thức ngoại giao, vì để duyệt hết tất cả những thứ ấy sẽ mất rất nhiều thời gian. Và theo quy trình thì Bộ Ngoại giao còn muốn thông báo vắn tắt tới 17 quốc gia, cùng với bao nhiêu vị Hạ nghị sĩ và Thượng nghị sĩ mà tôi chẳng nhớ nổi số lượng. Tổng thống Nixon [vì sốt ruột] đã nói rằng chúng ta sẽ giết chết đứa bé này trước khi nó ra đời, hoặc trước khi nó kịp lớn lên. May thay công việc này trùng hợp vào thời điểm xảy ra vụ tấn công Campuchia, và thế là Trung Quốc cắt liên lạc với chúng tôi.
Ông đã nhờ Pakistan chắp lại mối liên hệ với Trung Quốc ra sao?
Nói rằng chúng tôi gửi gắm qua Pakistan là quá lời. Chúng tôi nhờ một số nước. Trong thực tế chúng tôi đã nhờ một số nước XHCN như Rumani. Nhưng Trung Quốc không tin tưởng những nước này. Và chúng tôi cũng nhờ cả Pakistan. Không phải là tôi mà chính là Tổng thống Nixon, trong một chuyến đi tới Pakistan vào mùa hè 1969, đã nhờ thu xếp qua Yahya Khan5, nhưng sau đó không có gì xảy ra trong vòng một năm.
Ông được biết về lời mời của Trung Quốc gửi Nixon như thế nào?
Nixon đã để mắt tới Trung Quốc từ khá lâu. Năm 1967, viết trên tờ Các vấn đề đối ngoại (Foreign Affairs), ông đã khuyến cáo: “… chúng ta đơn giản là không thể bỏ qua Trung Quốc mãi mãi trong đại gia đình các quốc gia, làm vậy sẽ khiến họ tiếp tục nuôi dưỡng ảo mộng, ấp ủ thù hận, và đe dọa các láng giềng”. Năm 1969, quan hệ Trung Mỹ đang ở mức không công nhận lẫn nhau, với những thông điệp dành cho nhau mang tính thù địch. Sau khi tiếp quản ghế Tổng thống, Nixon bắt đầu ra dấu hiệu cho một thái độ tan băng đối với Trung Quốc. Ông ta để cho Ngoại trưởng Willam Rogers tuyên bố rằng Mỹ muốn tăng cường giao lưu văn hóa và khoa học với Trung Quốc, giảm bớt những hạn chế về thương mại và visa, đồng thời bắt đầu rút quân khỏi Việt Nam cũng như các căn cứ quân sự gần Trung Quốc. Để tránh trường hợp những thông điệp này không đến được công chúng Trung Quốc, ông ta thậm chí còn nói rõ ý mình hơn nữa. “Nếu có điều gì tôi muốn làm trước khi chết”, ông nói với tạp chí Time hồi tháng 10 năm 1970, “thì đó là đến Trung Quốc”. |
Hilali6 tới với một mẩu giấy viết tay mà ông ta không cho phép chúng tôi được cầm lại. Sự việc khi ấy có vẻ rất huyền bí. Và sự liên hệ đầu tiên đó cho thấy khá rõ là họ muốn đối thoại, ở cấp lãnh đạo rất cao, và họ cũng đã chuẩn bị mời Nixon tới Trung Quốc.
Chúng tôi đáp lại rằng chúng tôi sẽ không chỉ đến để nói riêng về chủ đề Đài Loan, rằng chúng tôi muốn mỗi bên có thể nói về tất cả những vấn đề có thể ảnh hưởng tới tổng thể quan hệ Trung – Mỹ.
Vì sao ông được chọn đến Trung Quốc để thu xếp cho chuyến thăm của Nixon? Một số người cho rằng dường như Nixon dùng ông như một công cụ trò chơi.
Phải rồi. Trò chơi, đây chỉ là một trò chơi cấp thấp theo tiêu chuẩn của Nixon. Và thực ra, thẳng thắn mà nói, ông ta có khả năng chơi khá hay. Tôi không nghĩ ban đầu ông ta định cử tôi đi. Chúng tôi đã cùng điểm qua một số cái tên, và mỗi lần ông ta cân nhắc ai thì lại thấy rằng hiển nhiên cái người được cử đi này sẽ trở thành một tên tuổi quan trọng, và được hưởng một phần công trạng trong việc mở cửa với Trung Quốc, mà Nixon thì tuyệt đối không muốn chia sẻ công lao này với ai. Vậy nên ông ta nghĩ rằng việc gửi đi cố vấn của mình, người không được phép xuất hiện trên TV và không được tự do trao đổi với báo chí, sẽ là cách an toàn nhất để không cạnh tranh với ông ta trong vấn đề này. Đây cũng là cách dễ nhất để ông ta kiếm soát tình hình. Tôi nghĩ đây là lý do tại sao ông ta chọn tôi.
Ông có thể nói về cách ông nhận được xác nhận đồng thuận cuối cùng từ phía Trung Quốc.
Sau một thời gian chờ đợi, không biết khi nào thì thông điệp sẽ được gửi đến, cuối cùng thì chúng tôi cũng nhận được nó, và nếu không nhầm thì tôi đã đến thông báo [cho Tổng thống] khi ông đang ở phòng chờ [mang tên] Lincoln. Tôi nói với ông ta rằng tôi nghĩ đây là một cuộc cách mạng về ngoại giao, hình như cụm từ chính xác mà tôi dùng là tin nhắn quan trọng nhất kể từ Thế chiến thứ 2. Ông ấy mở một chai Courvoisier và chúng tôi cùng uống mừng một ly. Nhưng chúng tôi cũng nhận ra rằng việc này có thể phá vỡ tình hình cuộc chiến ở Việt Nam và chắc chắn sẽ thay đổi bản chất mối quan hệ với Liên Xô.
Ông có thể mô tả chuyến đi của ông tới Pakistan?
Tôi đã lên kế hoạch đi công du qua châu Á, và tôi cố tình khiến chúng buồn tẻ hết cỡ để tránh sự soi mói của báo giới, đến khi chúng tôi tới Islamabad thì người ta đã bảo nhau rằng chuyến công du này thực sự thất bại, và chỉ còn sót lại đúng một nhà báo đưa tin về sự kiện. Tổng thống Yahya Khan mời chúng tôi dự bữa tối, trong bữa ăn tôi viện cớ bị ốm và Yahya vin vào đó mời tôi về nhà nghỉ dưỡng của ông trên núi. Vậy là chúng tôi tuyên bố với báo giới rằng tôi sẽ ở lại vài ngày trên núi. Chúng tôi thậm chí còn gửi đi một đoàn xe hộ tống để mọi người đều trông thấy và tin rằng đó là chuyện thật. Nhưng thực ra ngày hôm sau tôi dậy từ rất sớm, ngay trước 5 giờ sáng, lên một máy bay của Pakistan và bay tới Bắc Kinh. Đó không phải là một máy bay thương mại. Khi lên máy bay, tôi có mật vụ đi cùng giống như mọi thời điểm khác trong những ngày đó. Chúng tôi bắt gặp bốn người Trung Quốc mặc áo đại cán đang ngồi đó, do Chu Ân Lai gửi đến tháp tùng tôi về Trung Quốc. Nhưng khi ấy chúng tôi không hề biết trước. Đám mật vụ của tôi gần như lên cơn đau tim khi thấy những người này.
Ông có thể kể lại giai thoại về chiếc áo sơ mi?
Một trong những vấn đề với những chuyến công du cao cấp như thế này hóa ra lại là những điều nhỏ nhặt, như bạn dùng đoàn xe hộ tống nào, và bạn làm gì với những chiếc áo sơ mi. Bạn có đủ áo sơ mi cho chuyến đi hay không, và liệu bạn có dám để người ta giặt dọc đường tại các địa phương mà không e ngại nó có thể co lại tới mức không thể mặc được. Số là tôi đã chuẩn bị 3 chiếc áo sơ mi, mỗi cái vào một túi riêng, bảo quản rất cẩn thận. Nhưng rồi trợ lý của tôi để quên chúng ở Pakistan, và thế là tôi không còn áo mặc. Một người trong đoàn của tôi cao tới 6 ft 3 (tương đương 1,9 m) cho tôi áo của anh ta, và cái áo này khiến tôi trông như không có cổ. Chưa kể nó lại được sản xuất ở Đài Loan, với nhãn hiệu sản xuất tại Đài Loan. Tôi vẫn thường nói đùa với người Trung Quốc rằng Đài Loan rất gần với tôi, thực tế thì đúng là vậy.
Ấn tượng của ông về Chu Ân Lai như thế nào?
Chu Ân Lai là một người tinh tế, thông minh, chuyên nghiệp, gây sức hút, và dường như ông ta có vô tận thời gian cho những cuộc chuyện trò. Tôi thường bảo ông ta rằng tôi sẽ không thể dành nhiều thời gian đến thế cho những cuộc gặp sau. Nhưng ông ta vẫn cứ như vậy trong mọi lần gặp tiếp theo, ông ta không thích làm việc buổi sáng, nhưng chúng tôi thường bắt đầu từ ba giờ, và trò chuyện liên tục tới hai, ba giờ sáng hôm sau mà ông ta vẫn không hề bị ai đến làm phiền. Chẳng ai mang tới cho ông một mẩu giấy, và rõ ràng là không có ai gọi điện thoại đến. Ông ta hành xử như thể tuyệt đối chẳng hề có nhiệm vụ nào khác trên thế giới ngoại trừ làm việc với vị khách người Mỹ của mình. Rất rắn. Một người đàm phán rất giỏi. Một trong những người có năng lực nhất mà tôi từng gặp và là một trong những người dễ chịu nhất mà chúng ta có thể gặp hằng ngày.
Việc đàm phán về việc mời Nixon đến thăm có gặp khó khăn gì không?
Chuyến đi của tôi chỉ có đúng khoảng thời gian cuối tuần để bàn việc. Họ có chuyến thăm cấp Nhà nước của Kim Nhật Thành và không biết phải hủy thế nào. Nên Chu Ân Lai phải chia sẻ thời gian giữa chúng tôi và Kim Nhật Thành. Chúng tôi bắt đầu trao đổi về các thông điệp với công chúng, và người Trung Quốc đã dạy cho tôi một bài học mới. Tôi vốn quen làm việc với người Soviet và thường có thói quen đặt ra những yêu cầu mang tính tối đa, và bắt đầu đàm phán ngược lại từ đó. Nhưng người Trung Quốc bảo rằng tạm thời chưa thỏa thuận gì vội, chưa đặt ra điều khoản gì, mà chỉ cần cho chúng tôi biết các anh cần gì, rồi chúng tôi sẽ cho anh biết điều mà chúng tôi cần, và chúng ta cùng nhau thảo ra. Nhưng đang thảo luận giữa chừng thì Chu Ân Lai phải đi dự một bữa tối. Ông ta không thể cho chúng tôi biết lý do là gì. Vậy là chúng tôi chỉ mới kịp thảo luận sơ bộ trước khi ông ấy biến mất mà không rõ lý do. Chúng tôi chỉ còn biết ở lại trong nhà khách Chính phủ mà không hề có ai khác và không thể biết điều gì sẽ diễn ra tiếp theo. Sau đó Hoàng Hoa – sau này là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc, một người thân tín với Chu – xuất hiện. Chúng tôi cùng thảo luận nhưng vẫn chưa rõ thực hư. Sáng hôm sau, chúng tôi lại gặp Hoàng Hoa một lần nữa, ông ta đưa ra một văn bản, chúng tôi cũng có sẵn một văn bản. May cho tôi là tôi để ông ta đưa văn bản của họ ra trước, với nội dung tốt hơn nội dung của chúng tôi. Chúng tôi hầu như nhất trí và hình như chỉ đề nghị thay đổi đúng một chữ. Lúc đó Chu Ân Lai mới xuất hiện một lần nữa, và chúng tôi kết luận cuộc gặp, vì tôi phải trở về có mặt ở Paris trước nửa đêm theo giờ Paris, vì một lý do mà tôi không còn nhớ.
Trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Lạnh, đa số người Mỹ nhìn nhận Trung Quốc và Liên Xô là hai quốc gia riêng biệt nhưng ở cùng phía một chiến tuyến. Phải tới khi xảy ra cuộc chiến giữa hai bên Washington mới nhận ra hai cường quốc này mâu thuẫn nhau tới mức nào. Những căng thẳng giữa Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc chớm nở từ thập niên 1930, khi Nga ủng hộ Tưởng Giới Thạch hơn Mao Trạch Đông. Nhưng trong những ngày đầu của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Nga và Trung Quốc dường như sát cánh bên nhau. Năm 1950 Mao Trạch Đông ký Hiệp ước Hữu nghị, Liên kết, Tương trợ với Liên Xô, với cam kết bảo vệ Trung Quốc trong trường hợp bị Mỹ tấn công. Nhưng gần như ngay lập tức mối liên minh Trung – Xô bắt đầu có dấu hiệu trục trặc.
Từ giữa thập niên 1950, khác biệt về tư tưởng đường lối giữa Moscow và Bắc Kinh bắt đầu lộ ra, có sự xa cách trong các vấn đề về tiến độ, hình thái tiến lên CNXH, và đối sách với phương Tây. Trong khi Trung Quốc chủ trương tiếp tục chống lại các nước “đế quốc” thì Liên Xô đã bắt đầu cân nhắc về “chung sống trong hòa bình” với Mỹ. Không lâu sau đó những khác biệt về tư tưởng này chuyển hóa thành khác biệt ở tầm quốc gia, khi cả Trung Quốc và Liên Xô cùng cố gắng tăng ảnh hưởng của mình tới các nước XHCN khác. Tới đầu thập kỷ 1960, Moscow và Bắc Kinh bắt đầu công kích lẫn nhau công khai. Tháng 4 năm 1960, Bắc Kinh công khai phê phán “chủ nghĩa xét lại” của Liên Xô, và Moscow phản ứng lại bằng việc rút hàng nghìn cố vấn khỏi Trung Quốc, hủy bỏ các chương trình tài trợ kinh tế và quân sự. Năm 1962, Liên Xô ủng hộ Ấn Độ trong cuộc tranh chấp lãnh thổ tồn tại từ lâu với Trung Quốc. Quan hệ Trung Xô ngày càng tiêu cực trong suốt thập kỷ 1960. Tới khi Liên Xô đưa quân vào Tiệp Khắc năm 1968 và Moscow tuyên bố quyền can thiệp vào các nước XHCN khác để tự “bảo vệ” trước những ảnh hưởng chống Cộng sản, Bắc Kinh bắt đầu lo sợ rằng Trung Quốc sẽ là mục tiêu tiếp theo. Căng thẳng cuối cùng trở thành đối đầu vào tháng 3, 1969, dọc sông Ussuri, nơi có ranh giới rất mơ hồ giữa Liên Xô và Đông Bắc Trung Quốc. Đã có những vụ nổ súng vào nhau trong các ngày 2 và 15 tháng 3, gây ra nhiều thương vong. Xung đột vũ trang tiếp diễn vào mùa xuân và mùa hè, trong khi cả hai bên cùng tập trung đông quân vào khu vực điểm nóng. Trong vòng vài tháng, cả thế giới chứng kiến Trung Quốc và Liên Xô kéo nhau tới gần viễn cảnh một cuộc xung đột hạt nhân. Liên Xô liên tục ngụ ý về khả năng một cuộc tấn công mang tính phòng vệ vào các cơ sở hạt nhân của Trung Quốc, trong khi Trung Quốc xây dựng một mạng lưới đường ngầm và hầm để phòng khi bị tấn công hạt nhân. May mắn là cuộc khủng hoảng biên giới đã được giải quyết bằng ngoại giao vào tháng 9 /1969, khi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Kosygin bay tới Bắc Kinh đàm phán cấp cao về biên giới với Thủ tướng Chu Ân Lai. Tuy nhiên, mối đe dọa tiềm tàng từ Liên Xô đã thúc đẩy Chu và Mao phải bắt đầu suy nghĩ lại về chiến lược địa chính trị cho Trung Quốc. Họ biết rằng nếu chiến tranh nổ ra, Trung Quốc sẽ không thể đương đầu với lực lượng Soviet. Trong khi đó, Mỹ đang hiện diện ở Việt Nam, và chính quyền mới của Nixon chưa thể hiện một đường lối chính sách rõ ràng đối với Trung Quốc. Đối diện với nguy cơ từ hai phía, Bắc Kinh bắt đầu thấy rằng cải thiện quan hệ với Mỹ là cách tốt nhất để bảo đảm an ninh cho Trung Quốc. Tốt hơn là “liên minh với kẻ thù ở xa”, như Mao nói, “nhằm chống lại kẻ thù ngay ngoài cửa ngõ”. Cũng vào lúc đó, Washington bắt đầu nhận thấy rõ sự chia rẽ trong quan hệ Trung – Xô. Nixon và Kissinger nhận ra họ có thể dùng sự đối trọng giữa Moscow và Bắc Kinh để cải thiện được quan hệ với cả hai. Trong tất cả mọi nguyên nhân, sự chia rẽ trong quan hệ Trung – Xô là yếu tố là lực đẩy mạnh nhất giúp Mỹ và Trung Quốc tái lập quan hệ hữu nghị vào tháng 2/ 1972. |
Thanh Xuân lược dịch theo PBS
http://www.pbs.org/wgbh/amex/china/sfeature/kissinger.html
http://www.pbs.org/wgbh/amex/china/peopleevents/pande01.html
http://www.pbs.org/wgbh/amex/china/peopleevents/pande06.html
———–
1 Yuri Dubrinin: Đại sứ Nga tại Mỹ
2 Tập đoàn Rand là một tổ chức phi lợi nhuận nghiên cứu chính sách toàn cầu, được Công ty Máy bay Douglas thành lập nhằm thực hiện những nghiên cứu và phân tích phục vụ quân đội Mỹ. Ngày nay tổ chức này có 1700 nhân viên, được Chính phủ Mỹ cấp kinh phí, đồng thời được tài trợ bởi các nguồn kinh phí công và tư khác.
3 Allen Suess Whiting, giáo sư Khoa học chính trị Đại học Michigan trong giai đoạn 1968-1982
4 Walter John Stoessel, Jr., đại sứ Mỹ tại Ba Lan trong giai đoạn 1968 – 1972
5 Tổng thống Pakistan trong giai đoạn 1969 – 1971
6 Agha Hilaly, đại sứ của Pakistan tại Mỹ