Luận bàn về sự công bằng

Công bằng (justice) là một khái niệm luôn gây ra sự tranh cãi. Quan niệm thế nào cho đúng về sự công bằng? Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội hiện nay, cần phải nhìn nhận vấn đề công bằng như thế nào, và khả năng vận dụng vào thực tế ra sao để góp phần tạo nên sự phát triển bền vững cho xã hội.

Công bằng theo chiều ngang và công bằng theo chiều dọc

Trong kinh tế học, người ta phân biệt hai khái niệm khác nhau về công bằng xã hội đó là: công bằng xã hội theo chiều ngang (horizontal justice) nghĩa là đối xử như nhau đối với những người có đóng góp như nhau và công bằng xã hội theo chiều dọc (vertical justice) theo nghĩa là đối xử khác nhau với những người có những khác biệt bẩm sinh, trình độ, năng lực hoặc có các điều kiện sống khác nhau. Chẳng hạn trong việc xây dựng chính sách thuế: Những người có khả năng ngang nhau cần phải đóng một khoản thuế ngang nhau (công bằng theo chiều ngang), và những người có khả năng hay thu nhập không ngang nhau cần phải áp dụng những khoản thuế khác nhau (công bằng theo chiều dọc). Thí dụ, những bác sĩ có cùng trình độ, cùng năm cống hiến phải được hưởng lương như nhau, nhưng không thể đòi hỏi lương một người bác sĩ lâu năm đã bỏ bao công lao động, học hỏi, phải ngang bằng với lương một người y tá mới ra trường.

Công bằng theo nghĩa khách quan và công bằng theo nghĩa chủ quan

Công bằng cũng có thể được hiểu theo hai nghĩa khác nhau là nghĩa khách quan (objective justice) hoặc nghĩa chủ quan (subjective justice)1. Theo nghĩa khách quan, công bằng được hiểu là những giá trị đúng đắn, những qui tắc, chuẩn mực chung hoặc cách thức hành động phù hợp, được cộng đồng thừa nhận2. Chẳng hạn: Cái thiện luôn thắng cái ác, Cô Tấm hiền thảo, chịu khó hay Thạch Sanh nghĩa hiệp cuối cùng được hưởng vinh hoa phú quí, còn mẹ con Cám độc ác hay Lý Thông gian ác, xảo quyệt cuối cùng phải bị trừng trị. Đó là sự công bằng; Hay qui định người nào làm nhiều sẽ được hưởng nhiều, người nào làm ít sẽ được hưởng ít, người có công được thưởng, người có tội phải bị trừng phạt; người có công càng lớn thì mức thưởng càng lớn, người có tội càng nặng, mức phạt sẽ càng nặng. Đó là công bằng. Theo nghĩa chủ quan, công bằng phụ thuộc vào sự cảm nhận, đánh giá, phán xét của mỗi cá nhân3. Mỗi người sẽ có những đánh giá riêng của mình thế nào là công bằng hay không công bằng. Tóm lại, công bằng có thể hiểu một cách khái quát nhất là trạng thái lý tưởng của xã hội loài người, trong đó vấn đề tài sản, lợi ích, cơ hội giữa các thành viên trong xã hội được phân chia một cách phù hợp, không thiên vị4.

Bình đẳng về cơ hội và khuyến khích sự cạnh tranh giữa các ý tưởng


Xã hội nào cũng luôn tồn tại những nhóm người yếu thế, nhóm người dễ bị tổn thương. Những đối tượng này cần phải được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, công ăn việc làm, nguồn vốn, mạng lưới an sinh nhằm góp phần kiến tạo sự công bằng về điều kiện sống và công bằng về cơ hội phát triển trong xã hội5. Chẳng hạn chính sách cộng thêm điểm thi đại học theo vùng hiện nay, chính sách hỗ trợ cho những người tàn tật, người già cô đơn không nơi nương tựa ở Việt Nam hiện nay ngoài ý nghĩa là những chính sách xã hội, đó còn là biểu hiện của sự công bằng (công bằng theo chiều dọc).

Công bằng còn được hiểu là sự tìm kiếm một môi trường mà trong đó các cơ hội là ngang bằng nhau. Chẳng hạn, trong một xã hội đa dạng, đa chiều, sự cạnh tranh giữa các ý tưởng sẽ tạo điều kiện cho các sáng kiến của cá nhân phát triển. Chính sự cạnh tranh giữa các ý tưởng là bước khởi đầu, là cơ sở quan trọng để góp phần tạo nên sự công bằng xã hội. Điều này cũng phản ánh một qui luật tất yếu: sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.

Bình đẳng và công bằng dưới góc độ pháp lý


Dưới góc độ pháp lý, bình đẳng và công bằng là hai khái niệm khác nhau. Bình đẳng chỉ là yếu tố cơ bản hợp thành sự công bằng. Không ở đâu luật pháp qui định “mọi người đều bình đẳng”,vì điều đó không thể có, nhưng gần như pháp luật của quốc gia nào cũng qui định “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Bình đẳng trước pháp luật là điều kiện cơ bản để đạt đến sự công bằng6. Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 đều đề cao giá trị bình đẳng, công bằng, mục đích là chống lại sự phân biệt đối xử dựa trên sự khác biệt về nguồn gốc xuất thân, chủng tộc, màu da, giới tính, xu hướng tình dục, ngôn ngữ, tôn giáo, thế giới quan chính trị, nguồn gốc xuất thân, tài sản hay các điều kiện khác.Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật bị vi phạm khi công quyền hành xử tùy tiện, đối xử bất công hơn đối vớimột nhóm người này so với một nhóm người khác, không dựa trên căn cứ pháp lý nào cả, mặc dù giữa hai nhóm này không có bất cứ một sự khác biệt nào về mặt địa vị pháp lý. Những đạo luật vi phạm nguyên tắc bình đẳng phải bị tuyên bố vô hiệu. Những quyết định hành chính hay phán quyết của Tòa án vi phạm nguyên tắc bình đẳng phải bị hủy bỏ.

Trong xã hội hiện đại ngày nay, để đảm bảo cho sự công bằng, cơ quan lập pháp có vai trò rất quan trọng. Lập pháp có nhiệm vụ phải tối ưu hóa mọi lợi ích của mọi thành phần xã hội (welfare maximization). Muốn vậy, phải có cơ chế giải trình, kiểm tra, giám sát và đảm bảo minh bạch thông tin. Người dân phải được quyền biết và đóng góp ý kiến vào việc hình thành, cũng như giám sátviệc thực thi pháp luật. Hoạt động hành pháp và tư pháp cũng phải dựa trên cơ sở pháp luật và đảm bảo sự vô tư (fairness), đồng thời phù hợp với tính chất, mức độ của từng quan hệ pháp lý cụ thể.

Việc thực thi hiệu quả các vấn đềnhư công bằng trong việc tiếp cận các cơ hội, công bằng trong việc gánh vác trách nhiệm chung, công bằng trong việc hưởng các quyền tự do, công bằng dựa trên chủ nghĩa cộng đồng và công bằng giữa các thế hệ sẽ góp phần kiến tạo nên một sự phát triển bền vững về nhiều phương diện ở phạm vi toàn cầu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng.” Công bằng ngày nay không chỉ là xu hướng chung trong thế giới đương đại mà còn là điều kiện cho tăng trưởng kinh tế, là tiêu chí, thước đo đánh giá mức độ phát triển bền vững của một xã hội. Mặc dù có nhiều cách quan niệm cũng như lý thuyết về sự công bằng, tuy nhiên những lý thuyết này vẫn chưa đủ để tạo ra một cách hiểu thống nhất về sự công bằng, bởi lẽ mỗi một nền văn hóa, ở không gian và thời gian khác nhau, lại xuất hiện những cách hiểu, cách đánh giá khác nhau về sự công bằng. Ngày nay trước xu thế toàn cầu hóa, hội nhập, công bằng dần được nhìn nhận trong một phạm vi rộng lớn hơn, không chỉ được hiểu là công bằng trong phạm vi quốc gia, mà hơn thế, công bằng còn được hiểu ở phạm vi quốc tế. Việc thực thi hiệu quả các vấn đề như công bằng trong việc tiếp cận các cơ hội, công bằng trong việc gánh vác trách nhiệm chung, công bằng trong việc hưởng các quyền tự do, công bằng dựa trên chủ nghĩa cộng đồng và công bằng giữa các thế hệ sẽ góp phần kiến tạo nên một sự phát triển bền vững về nhiều phương diện ở phạm vi toàn cầu.

————–
1Rüthers/Fischer/Birk, Rechtstheorie mit juristischer Methodenlehre, 6. Aufl., 2011, Rn. 347.

2Rüthers/Fischer/Birk, Sách đã dẫn, Rn. 348.

3Rüthers/Fischer/Birk, Sách đã dẫn, Rn. 349.

4 Xem: Oswald Schwemmer, Gerechtigkeit, in: Jürgen Mittelstraß (Hrsg.): Enzyklopädie Philosophie und Wissenschaftstheorie. Band 1. Metzler, Stuttgart 1995, S. 746

5Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (World Development Report 2006 – Equity and Development) ở những nước nào mà các yếu tố về công bằng, đặc biệt là công bằng về mặt cơ hội (equality of opportunity) được quan tâm, bảo vệ thì ở những nước đó có sự tăng trưởng tốt về kinh tế. (Xem báo cáo của ngân hàng thế giới (World Bank) về sự công bằng và phát triển (Equity and Development) năm 2006 tại địa chỉ: http://econ.worldbank.org/external/default/main?pagePK=64165259&theSitePK=478060&piPK=64165421&menuPK=64166093&entityID=000112742_20050920110826).

6Nguyên tắc này đóng vai trò như là nền tảng của nhà nước pháp quyền hiện đại và là một nguyên tắc quan trọng của nhiều bản Hiến pháp dân chủ. Trong tuyên ngôn nhân quyền của Liên hiệp quốc năm 1948 (The Universal Declaration of Human Rights) có ghi nhận là: “Tất cả mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền lợi.” Điều 52 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 cũng qui định: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”.

Tác giả