Một vấn đề cấp thiết đối với ngành NLhạt nhân: ĐT nhân lực KHCN (trước khi nói đến vấn đề NCKH)

Ngày 03/01/2006 Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã ký quyết định số 01/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt “Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020”. Để thực hiện chiến lược đó vấn đề đào tạo nhân lực khoa học – công nghệ hạt nhân là vấn đề quan trọng số một. Nhân lực này sẽ quyết định thành công của chương trình hạt nhân, quyết định mặt an toàn và tính kinh tế của các dự án. Đào tạo nhân lực phải đi trước một bước bằng 10-15 năm. Với nhân lực non yếu chưa đủ sức nghiên cứu khoa học (NCKH) như hiện nay trong chương trình điện hạt nhân thì vấn đề đào tạo phải đặt trước vấn đề NCKH. Thất bại trong công việc đào tạo có thể dẫn đến nguy cơ thất bại của điện hạt nhân!

Chọn  con đường phát triển năng lượng hạt nhân là việc làm đúng đắn. Thật vậy nếu xét từ 3 góc độ: vĩ mô, dài hạn và ngoại giá (externalities)  thì hạt nhân vẫn là chiếm ưu thế cho ngành năng lượng tương lai của Việt nam.
Trong vận hội WTO, Đảng và Chính phủ sẽ đưa nước ta hòa nhập vào cộng đồng những nước có điện hạt nhân . Điều này làm nức lòng các nhà khoa học và các nhà năng lượng.
Song chúng ta phải ý thức được rằng điện hạt nhân sẽ đặt chúng ta trước nhiều thách thức vô cùng lớn lao. Năng lượng hạt nhân không thuộc về năng lượng cổ điển và đòi hỏi những tri thức đặc thù mà chúng ta chưa có nhiều [1] [2] và cũng đòi hỏi những cơ cấu tổ chức thích hợp.
Đối diện với điện hạt nhân chúng ta cần một đội ngũ cán bộ có trình độ cao về khoa học cũng như về công nghệ. Đội ngũ đó hiện nay chúng ta chưa có đủ, hay nói thẳng là chúng ta chưa có. Và muốn đầo tạo được một đội ngũ như vậy phải có một chiến lược quốc gia lâu dài, sâu rộng. Nhiều nước đi theo con đường hạt nhân đã tung ra đào tạo trong nước và nước ngoài hàng nhiều trăm cán bộ ưu tú  trong vòng 10-15 năm trước khi chế ngự được ngành điện hạt nhân theo đúng ý nghĩa của vấn đề: du nhập điện hạt nhân và nội địa hóa, tiến đến làm chủ hầu hết các công đoạn [3].

A  .  Vì sao cần có một Ban Chỉ đạo quốc gia (hoặc liên Bộ) chương trình hạt nhân?
Như chúng ta biết muốn làm điện hạt nhân phải có sự cam kết của Nhà nước, đây là khuyến cáo đầu tiên của IAEA (Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế) [4]. Có được cam kết của Nhà nước chúng ta mới có cơ sở, có khả năng huy động mọi nhân lực, vật lực, tài lực vào công cuộc hạt nhân, mới có đủ tư cách pháp nhân trên trường quốc tế.
Muốn làm được việc đó không một Bộ nào đứng riêng lẻ làm được mà cần sự hợp lực của nhiều Bộ, và muốn điều hành được công việc của nhiều Bộ cần thành lập một Ban Chỉ đạo quốc gia (hoặc liên Bộ) chương trình hạt nhân.
Trong cuộc hội thảo do IAEA tổ chức tại khách sạn Melia, 19-21 tháng 6/2007 về hạ tầng cơ sở cho ngành hạt nhân, GS. R I Facer đã nhấn mạnh sự cần thiết của một ban chỉ đạo quốc gia để điều hành mọi công việc (NEPIO-Nuclear Energy Program Implementation Organisation)
Theo kinh nghiệm nhiều nước, chỉ đạo  chương trình hạt nhân là một cán bộ quản lý cao cấp có quyền lực (ở một số nước là quyền lực rất lớn), hoặc một nhà khoa học có tài đức được trao đủ quyền, có khả năng điều hành và thực hiện một chương trình lớn như chương trình hạt nhân,  là một nhạc trưởng lớn (theo cách phát biểu của Bộ trưởng Bộ KH&CN), đứng đầu một Ban chỉ đạo quốc gia (hoặcBan chỉ đạo liên Bộ) Chương trình hạt nhân để điều hành mọi công việc (xem tư liệu 1).
Sau đây dùng  BCĐQG/LBCTHN  để chỉ Ban chỉ đạo quốc gia (hoặcBan chỉ đạo liên Bộ) Chương trình hạt nhân.

Tư liệu tham khảo 1

Sau đây là một số nhà khoa học có công lớn trong ngành hạt nhân ở  một số nước:
• Ông Homi Jehangir Bhabha (1909-1966) sinh tại Bombay, học tại Elphinstone College vàViện Khoa học Hoàng gia (Royal Institute of Science). Ông nhận bằng tiến sĩ tại Đại học Cambridge  năm 1934. Cùng với J.R.D. Tata  ông thành lập Viện nghiên cứu cơ bản Tata (Tata Institute of Fundamental Research) tại Mumbai. Được Nehru giao nhiệm vụ, ông đứng ra lãnh đạo ngành hạt nhân và thành lập ủy ban năng lượng nguyên tử  ấn độ năm 1948. Hiện nay Trung tâm nghiên cứu nguyên tử Bhabha được mang tên ông.
• J. Robert Oppenheimer (1904-1967) là một nhà vật lý lý thuyết , giám đốc khoa học Dự án Manhattan, cố vấn chính của ủy ban năng lượng nguyên tử Mỹ.
• Igor Vasilyevich Kurchatov (1908-1960) là nhà vật lý được Stalin giao nhiệm vụ xây dựng ngành công nghệ hạt nhân Xô viết cũ.
• Jean Frederic Joliot-Curie (1900-1958). Sau thế chiến thứ II ông phụ trách  Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Khoa học quốc gia  (Centre National de la Recherche Scientifique)   và trở thành Cao ủy Năng lượng nguyên tử Pháp (High Commissioner for Atomic Energy) . Năm 1948 ông chỉ đạo xây dựng Lò phản ứng hạt nhân đầu tiên của Pháp. Miệng núi Joliot trên mặt trăng mang tên ông.

Tại nhiều nước ủy ban Năng Lượng Nguyên tử Quốc gia, hoặc Cục Năng lượng Nguyên tử, đóng vai trò BCĐQG/LBCTHN. Vì BCĐQG/LBCTHN nằm ở  mức Chính phủ  nên có thể điều hành được công việc, vốn liên quan đến nhiều Bộ, nhiều ngành.
Nhiều nước lấy các  Bộ quan trọng sau đây (hoặc các Bộ tương đương) làm hạt nhân trong
BCĐQG/LBCTHN:
1  /  Bộ Công Thương
2  /  Bộ Khoa học và Công nghệ
3  /  Bộ Giáo dục & Đào tạo.
4  /  Bộ Tài nguyên & Môi trường
Hiện nay chúng ta đang có Tổ chỉ đạo quốc gia chương trình hạt nhân (TCĐQGCTHN). Đây là một yếu tố  thuận tiện.
Có thể  huy động sự tham gia của những chuyên gia Việt kiều trong ngành hạt nhân vào BCĐQG/LBCTHN.

B  .   Các Ban chỉ đạo quốc gia hoặcBan chỉ đạo liên Bộ (BCĐQG/LB) về các chuyên ngành  dưới BCĐQG/LBCTHN
Như chúng ta biết chương trình hạt nhân gồm hai phần mà người ta thường ví như hai bánh  của cỗ xe hạt nhân:
– phi năng lượng (non power), sử dụng khoa học & kỹ thuật hạt nhân vào các ngành kinh tế quốc dân
– năng lượng (power) tức điện hạt nhân
Nội dung bài này tập trung vào phần thứ hai, tuy nhiên các ý tưởng trình bày ở đây có thể áp dụng cho cả hai phần.
Trong bài này chúng tôi xin bàn về đào tạo nhân lực, cho nên trong sơ đồ dưới đây chỉ biểu diễn BCĐQG/LB về đào tạo nhân lực nằm dưới BCĐQG/LBCTHN.
Một trong các nhiệm vụ rất lớn trước mắt là đào tạo nhân lực, đào tạo nguyên khí của ngành hạt nhân. Nếu trong tay chúng ta có chừng 300-400 chuyên gia giỏi với trình độ cao thì sự thành công của chương trình hạt nhân sẽ được bảo đảm trong giai đoạn đầu.
Vấn đề đào tạo nhân lực cho ngành hạt nhân phải là một vấn đề ở mức Chính phủ (Government level) cũng có thể ở mức liên Bộ. Đây cũng là một khuyến cáo quan trọng của IAEA [4]. Không ý thức được điều này khó lòng có được một đội ngũ cán bộ tối cần thiết cho ngành điện hạt nhân.

Không có một Ban chỉ đạo quốc gia hoặc Ban chỉ đạo liên Bộ về đào tạo nhân lực (gồm các Bộ: Công Thương + Khoa học Công nghệ+  Giáo dục Đào tạo) chúng ta không thể thi hành được nhiệm vụ đào tạo nhân lực cho chương trình hạt nhân. Điều này đã được khẳng định trong “Chiến lược ứng dụng Năng lượng Nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020” kèm theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
BCĐQG/LB  về đào tạo nhân lực sẽ hoạt động với đầy đủ điều kiện về tổ chức, kinh phí với một kế hoạch khẩn trương, chi tiết, chuyên nghiệp.
Cần tổng hợp đề án đào tạo nhân lực của 3 Bộ nói trên  để có một chương trình hành động mạnh mẽ và hiệu lực, nhất quán và  thống nhất.
Việc đào tạo nhân lực cho chương trình hạt nhân phải gồm ba công đoạn lớn:
1 /  Công đoạn củng cố, đào tạo lại, nâng cấp đối với nhân lực hiện có (existing manpower)
2 /  Công đoạn hướng dự án (project-oriented) nhằm đào tạo trước mắt nhân lực cho nhà máy điện nguyên tử đầu tiên (và trong tương lai cho những nhà máy điện nguyên tử tiếp theo)
3  /  Công đoạn hướng chương trình (programme-oriented) nhằm đào tạo nhân lực lâu dài cho cả chương trình hạt nhân.

Có thể biểu diễn ba công đoạn trên bằng đồ thị sau đây.

Trong đồ thị trên
I  …………………….. biểu diễn nhân lực hiện có
IIa,b,c ……………… biểu diễn  nhân lực hướng dự án
IIIa,b,c …………….  biểu diễn nhân lực hướng chương trình (đầu đàn +R&D+pháp quy)

Bị chú:
1/ Lộ trình IIIb có thể xem là lộ trình kéo dài bổ sung cán bộ R&D của lộ trình I.
2/ Trong trường hợp dự án NMĐHN đầu tiên có chậm lại một vài năm thì các lộ trình IIa, IIb và IIc cũng sẽ được lùi lại tương ứng theo số năm như vậy. Tuy nhiên các lộ trình I, IIIa, IIIb và IIIc vẫn phải giữ nguyên như cũ vì các lộ trình này liên quan đến chương trình điện hạt nhân nên cần được giữ nguyên để tranh thủ thời gian vốn còn rất ít cho chương trình.
 3/ Đoạn lấm chấm trong đồ thị có ý nghĩa là công đoạn tương ứng có thể bắt đầu sớm  hơn hoặc kéo dài thêm nhiều năm sau.
Những điểm quan trọng trong kế hoạch đào tạo:
i / Cả ba công đoạn I, II & III phải được tiến hành cùng một thời điểm (2006-2007). Có nhiều quan điểm cho rằng trước tiên hãy tập trung vào đầo tạo nhân lực cho dự án(xem tư liệu 2). Song điều này không đúng vì trong giai đoạn đầu của chương trình hạt nhân các công đoạn I, II & III gối đầu nhau. Ngay từ lúc ban đầu chúng ta đã phải cần có những cán bộ chuyên gia công nghệ giỏi để am hiểu thẩm kế, có trình độ làm việc với tư vấn ngoại quốc trong mọi ký kết, chúng ta cần phải có cán bộ pháp quy để giải quyết những vấn đề về an toàn, luật pháp. Cho nên nhiều cán bộ thuộc phạm trù hướng chương trình cũng thuộc phạm trù hướng dự án .

 Tư liệu tham khảo 2

 Nhiều người quan tâm đến cán bộ vân hành trực tiếp lò phản ứng. Kinh nghiệm của nhiều nước cho biết rằng những càn bộ này có thể đào tạo từ những cán bộ đại học trong vòng 2 năm. Song những cán bộ đứng sau các cán bộ vận hành đó (supervisors) mới là những cán bộ cần đào tạo lâu năm. Họ thuộc về lộ trình các chuyên gia IIa & IIIb.

ii  /  Một nhân lực quan trọng là nhân lực hiện có (existing man power). Chính hiện nay lực lượng này đang giúp Chính phủ vạch kế hoạch cho chương trình hạt nhân. Trong số họ nhiều chuyên gia giỏi về kỹ thuật, công nghệ hạt nhân, tính toán lò phản ứng, nhiều người đã học tập, thực tập trên các lò phản ứng  ở nước ngoài, nhiều người là chuyên gia của IAEA. Bộ phận nhân lực này đã có nhiều công trình khoa học công nghệ quan trọng đăng trong nước và nước ngoài, nhiều công trình rất có giá trị. Nhân lực hiện có này đã được đào tạo trong nhiều chục năm trong thời gian trước đây, và trong những kế hoạch ngắn hạn sau này. Biết củng cố, đào tạo thêm, nâng cấp thì đây là một vốn nhân lực rất mạnh, rất hữu ích cho công đoạn hướng dự án và cả cho công đoạn hướng chương trình trong giai đoạn đầu. Trong vòng 10 năm nữa lực lượng này đang và sẽ đóng vai trò quan trọng. Trong sơ đồ trên  chúng ta thấy đuờng biểu diễn IIIb và I có thể xem là kéo dài của nhau.
Nhưng phải nói rằng số nhân lực này không đủ và không thể đáp ứng được các nhiệm vụ nặng nề trước mắt.
iii  /  Đường IIIa biểu diễn việc đào tạo những cán bộ đầu đàn. Nhiều nước đã lo nghĩ đến cán bộ đầu đàn từ rất sớm, họ gửi ra nước ngoài hàng trăm cán bộ học tập trong 5 năm trong 10 năm. Nếu ngay bây giờ (2007) chúng ta gửi đi khoảng 10-30 người xuất sắc thì đến năm 2011-2012 chúng ta sẽ có khoảng 10-20 cán bộ thật giỏi, xứng đáng ở cương vị đầu đàn. Việt nam trước đây trong thời bao cấp đã tích lũy được một số kinh nghiệm trong đào tạo cán bộ đầu đàn (xem tư liệu 3), có thể đơn cử những nhà khoa học được Đảng và Chính phủ gửi đến Viện nghiên cứu hạt nhân Đúp na, hiện nay họ vẫn tiếp tục là những cán bộ đầu đàn trong lĩnh vực được đào tạo.

Tư liệu tham khảo 3

GS Tạ Quang Bửu, lúc sinh thời có một cách nhìn rất sáng suốt trong việc đào tạo những cán bộ đầu đàn. Ông chọn người, mời đến nhà riêng giao nhiệm vụ và tìm mọi cách gửi họ ra nước ngoài trong vòng 5 đến 10 năm theo những thủ tục đặc biệt thoát khỏi thông lệ thời bao cấp. Nhờ phương thức này mà VN có được một số cán bộ đầu đàn hiện nay đang phát huy tác dụng, mặc dầu nhiều người đã lớn tuổi.

C .  Mô hình đào tạo trong nước
Cần đào tạo các chuyên gia các cấp sau:
BS (Bachelor of Sciences)– trình độ đại học, cử nhân
MS (Master of Sciences)– trình độ sau đại học, thạc sĩ
PhD (Doctor of Philosophy) – trình độ trên đại học, tiến sĩ
Trong nước chúng ta có thể có 4 lộ trình đào tạo chuyên gia như sau :
1  /  Lộ trình  xuất phát từ các trường Đại học Bách khoa
2  /  Lộ trình   xuất phát từ  các trường Đại học KHTN
       Lộ trình  cũng dành cho cán bộ pháp quy.
3  /  Lộ trình   xuất phát từ các trường đại học, sau đó tiếp tục tại các cơ sở đào tạo của các
       Viện nghiên cứu.
4  /  Lộ trình  xuất phát từ Đại học điện lực (Bộ Công nghiệp).
Chú ý : Trên đây là các lộ trình đào tạo từ cơ sở đến cấp học PhD
Song ở một cấp nào (BS, MS hay PhD) ta đều có thể lấy tắt ngang các cán bộ hoặc từ các nhà máy, công ty hoặc từ các Viện đã có một trình độ tương đương (trong một chuyên môn có thể khác hạt nhân) với cấp đang xét để học tiếp những giáo trình nâng cao và chuyên sâu hơn về hạt nhân.
Các cơ sở đào tạo của các Viện nghiên cứu sẽ cấu tạo thành một TRUNG TÂM đào tạo . Có thể nói đây là tiền thân của Trung tâm đào tạo quốc gia cho ngành hạt nhân .
Trung tâm này được mô phỏng theo mô hình INSTN của Pháp và sẽ nằm dưới sự chỉ đạo của 3 Bộ  (xem tư liệu 4):
– Bộ Khoa học & Công nghệ
– Bộ Giáo dục & Đào tạo
– Bộ Công Thương.
Bị chú :Ngoài các hình thức trên còn có những lớp ngắn hạn, tổ chức cùng với các cơ quan bên các nước khác: ví dụ những lớp học cho EVN và các cơ quan khác (phối hợp với Nhật/Toshiba năm 2005, 2006) hay lớp học về an toàn (phối hợp với IAEA/Argonne laboratory năm 2005).

Tư liệu tham khảo 4

INSTN (Institut National des Sciences et Techniques Nucléaires), trung tâm nghiên cứu và đào tạo lớn với 50 năm kinh nghiệm.  Nhận sinh viên từ nước ngoài.
 INSTN được thành lập vào năm 1956 nằm dưới quyền của các Bộ Giáo dục quốc gia và Bộ Công nghiệp. Viện này có khả năng đào tạo kỹ sư và cấp học 3 ème – cycle .
  Đây là một đặc thù rất đáng nghiên cưú của INSTN : vừa chịu sự điều khiển của Bộ Giáo dục vừa chịu sự điều khiển của Bộ Công nghiệp , như vậy INSTN vừa mang tính đào tạo cơ bản vừa mang tính đào tạo  công nghiệp.  Chương trình đào tạo gồm
a  /  Kỹ sư công nghệ nguyên tử (Ingénieur  en Génie Atomique)
Phần chuẩn bị  : Kỹ thuật , Công nghệ kỹ sư , địa điểm TOULOUSE
 Phần chuyên sâu: Công nghệ nguyên tử (génie atomique), địa điểm SACLAY, CADARACHE, CHERBOURG.
b  / 3ème cycle . Các phần đào tạo 3ème cycle được kết hợp với các trường đại học:
 – DEA (diplôme d’études approfondies) .  Sau DEA sinh viên thực hiện một luận án doctorat .
 – DESS (diplôme d’études supérieures spécialisées).  Ngoài ra có thể có phần DES (diplôme d’études spécialisées :ví dụ y học hạt nhân) và DESC (diplôme d’études spécialisées complémentaires, ví dụ radiopharmacie, radiobiologie).

D . Đào tạo ở nước ngoài (vô cùng quan trọng trong giai đoạn hiện tại)
Cần phải xác định rằng công đoạn đào tạo ở nước ngoài và ưu đãi, mời về nước làm việc các chuyên gia lớn  đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Nhiều nước đi trước chúng ta như Hàn quốc, Trung quốc đã gửi đào tạo trong nhiều năm (10 – 15 năm) nhiều cán bộ đến các nước như Mỹ, Anh, Pháp…và sẵn sàng mời những chuyên gia lớn về nước làm việc với những chế độ đặc biệt .Nhiều người trong số đó đã đóng vai trò cán bộ đầu đàn, vai trò chỉ đạo (xem tư liệu 5).
Chú ý trong hoàn cảnh giáo dục ở nước ta gặp nhiều khó khăn, cơ sở thiết bị hạn chế việc đào tào ở nước ngoài đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
Chỉ nên gửi đi nước ngoài những cán bộ có trình độ BS (tốt nghiệp Đại học).

E . Những quan điểm cần tránh

a  /  Tách rời đào tạo nhân lực hướng dự án và nhân lực hướng chương trình
b  /   Phương thức vừa học vừa làm chỉ có thể áp dụng cho một số công việc còn đối với chương trình hạt nhân cần đào tạo trước một bước (10 đến 15 năm) vì những kiến thức hạt nhân không thể học được ngay một sớm một chiều.
c  /  Đào tạo tự phát trong từng cơ sở không theo một quy hoạch tổng thể ở mức quốc gia.

F  .  Kinh nghiệm

Sau đây là những kinh nghiệm quý báu lấy từ các nước mà hoàn cảnh lúc ban đầu xây dựng hạt nhân gần giống ta đến những nước tiền tiến.
Kinh nghiệm Tây ban nha (TBN)
a  / TBN đã bắt đầu chương trình đào tạo nhân lực hạt nhân của mình 15 năm trước lúc LPƯ đầu tiên hoạt động.
b  /  Hành động quyết tâm của Chính phủ
c  /  Kết hợp chặt chẽ với ngành công nghiệp, bảo đảm việc cung cấp thiết bị và các dịch vụ quan trọng, trong đó có đào tạo nhân lực.
d  / TBN có một chương trình hạt nhân dài hạn với quy mô lớn và một quá trình nội địa hoá nhất quán.
Những kinh nghiệm trên  làm cho TBN trở thành một nước có ngành hạt nhân mạnh mẽ .

Tư liệu tham khảo 5

Sau đây là các nhà khoa học được đào tạo thành công ở nước ngoài hoặc đã nổi tiếng ở nước ngoài và được mời về làm việc trong nước ở những lĩnh vực khác nhau:
• Zhou Guangzhao- Chu Quang Triệu (周?光召) sinh năm 1929. Năm 1957 ông được cử đến Viện liên hiệp nghiên cứu hạt nhân Đúp na. Năm 1960 ông trở về Trung quốc làm việc trong ngành hạt nhân  Năm 1979 ông sang Mỹ làm việc tại Viện Bách khoa Virginia rồi sang Thụy sĩ  làm việc tại Tổ chức nghiên cứu hạt nhân Châu Âu. Ông  được bầu làm Phó chủ tịch (1984-1987) rồi Chủ tịch (1987-1997) Viện Hàn lâm TQ (Sinica)  và Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học quốc gia Mỹ năm 1987.
• Tsien Hsue-shen – Tiền Học Sâm  錢X學森? (1911- …) là chuyên gia lớn về tên lửa của Mỹ và Trung quốc. Ông tham gia xây dựng Phòng thí nghiệm tên lửa tại Viện Công nghệ California sau về TQ trở thành “cha đẻ tên lửa” của TQ. Tiểu hành tinh 3763 mang tên ông.

Kinh nghiệm Pháp
Một mô hình đào tạo rất nên được chú ý ở Pháp là  Viện INSTN (Institut National des Sciences et Techniques Nucléaires). Viện INSTN đóng một vai trò chủ đạo trong việc đào tạo nhân lực của Pháp (xem Tư liệu tham khảo 4 )

Kinh nghiệm của Mỹ
Một phương thức mạnh của Mỹ là phối hợp trong công tác đào tạo giữa  các cơ sở với các tập đoàn đại học, các phòng thí nghiệm lớn quốc gia, với những tổ chức, công ty sở hữu nhiều thiết bị hiện đại với công nghệ cao. Đây có thể nói đây là quan điểm tổng lực trong đào tạo.

Hàn Quốc
Một chiến lược đào tạo nhân lực lâu dài, có hệ thống, một chủ trương R&D các công nghệ tiên tiến và một nghệ thuật quản lý tài tình đã giúp Hàn quốc trở thành một trong những nước hùng cường về hạt nhân.

Kinh nghiệm của các nước khác

Nhiều cán bộ được chuyển từ nhiệt điện truyền thống để sang làm việc trong lĩnh vực hạt nhân.
Ngoài ra có thể lấy cán bộ từ các ngành khác như  cơ, điện, xây dựng,… và đào tạo bổ túc kiến thức hạt nhân, biến họ thành những chuyên gia phục vụ cho chương trình hạt nhân.
Việc huy động được nhân lực (ngoại  kiều) đang công tác học tập ở nước ngoài  (không được Nhà nước chính thức cử đi đào tạo), cũng là yếu tố quan trọng trong vấn đề tạo nguồn nhân lực .

G  .  Kết luận

Tư liệu tham khảo 6
Một số khả năng chính trong vấn đề đào tạo nhân lực Việt Nam ở nước ngoài là:
a  /  IAEA
b  /   Pháp .Địa chỉ gửi đến có thể là INSTN  và CNRS. Thời hạn đào tạo : 1-2 năm .
c  /   Nga. Những  địa chỉ quan trọng và đáng tin cậy là:MIFI, MPEI & Joint Institute for Nuclear Research (Viện nghiên cứu hạt nhân Đúp Na, đã từng đào tạo nhiều chuyên gia đầu ngành cho Việt Nam). Với Nga, chúng ta đã có hiệp định ở cấp Chính phủ.
d  /  Nhật Bản. Địa chỉ gửi đến: IOT (Institute of technologies), văn bản khung đã ký kết năm 2003. RIKEN, chương trình hợp tác đã ký kết và thực hiện từ năm 2001.JAERI.
e  /  Hàn Quốc. Địa chỉ gửi đến :KAERI, KAIST (Korea Advanced Institute of Science & Technology)
Đã có hiệp định cấp Chính phủ về hợp tác sử dụng năng lượng nguyên tử .
f  /  ấn Độ. Đã có Hiệp định cấp Chính phủ về hợp tác sử dụng năng lượng nguyên tử . Có thể gửi cán bộ đi đào tạo trên một năm theo các chuyên môn: Công nghệ, Chu trình nhiên liệu, …
Các địa chỉ: BARC, Bhabha Atomic Research Centre, Bombay ,HYDROBAT (tổ hợp chu trình nhiên liệu)
g  /  Canada.Đã có thoả thuận hợp tác trong lĩnh vực hạt nhân.Địa chỉ: AECL
h  /  Mỹ. Đã có hiệp định hợp tác khoa học và công nghệ.

Đào tạo nhân lực cho hạt nhân  là một vấn đề phức hợp và có tầm quan trọng vào bậc nhất đối với chương trình hạt nhân.
Muốn có một nhân lực hạt nhân hùng hậu, và gìn giữ được nhân lực này cần có một chính sách thích hợp. Nhiều nước như Trung quốc có chế độ ưu đãi đặc biệt đối với nhân lực hạt nhân.
Đầo tạo nhân lực hạt nhân phải đặt ở tầm quốc gia, với một mức độ cấp thiết cao và phải được tiến hành ngay từ bây giờ (2007) để đi được trước một bước so với các tiến độ khác của chương trình hạt nhân.
Sự thành công của chương trình hạt nhân do yếu tố nhân lực quyết định một phần lớn.

Tài liệu tham khảo:
[1] Đề án đào tạo nhân lực (VNLNT VN-Bộ Khoa học & Công nghệ)
[2] Đề án đào tạo nhân lực cho NMĐHN đầu tiên (VNL- Bộ Công Thương)
[3] Hợp tác đầo tạo nhân lực Hàn-Việt. Hàn quốc đã góp ý kiến cho Việt nam bằng cách đưa ra  một khẩu hiệu quan trọng trong việc đào tạo nhân lực hạt nhân:
教  育ý – 百  年?  之?  大 計‹ (Giáo dục – Bách niên chi đại kế =  Giáo dục– kế lớn 100 năm)
[4] Technical Reports Series No 200, IAEA


Cao Chi

Tác giả

(Visited 3 times, 1 visits today)