Phân tích chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam
Tóm lược. Trên bình diện quốc gia, hai chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá năng lực khoa học của một nước là số lượng ấn phẩm khoa học được công bố trên các tập san khoa học quốc tế có hệ thống bình duyệt (peer reviewed journals), và số lần trích dẫn (citations) của những bài báo khoa học. Bài viết này phân tích các ấn phẩm khoa học Việt Nam và các nước trong vùng Đông Nam Á trên các tập san khoa học quốc tế từ năm 1996 đến 2005, và chỉ số trích dẫn của những ấn phẩm khoa học trong thời gian 2000-2001. Kết quả cho thấy trong thời gian 1996-2005, Việt Nam công bố được 3456 công trình nghiên cứu khoa học, và số ấn phẩm khoa học này đứng vào hàng thấp nhất trong vùng: bằng khoảng 1/5 số bài báo từ Thái Lan (n = 14.594), 1/3 Malaysia (n = 9742), 1/14 Singapore (n = 45.633), và thấp hơn Indonesia (n = 4.389) và Philippines (n = 3901).
Nhưng về chất lượng, ấn phẩm khoa học Việt Nam có phần cao hơn các nước trong vùng, với số lần trích dẫn trung bình cho mỗi bài báo trong vòng 5 năm là 9,74 lần. Chất lượng ấn phẩm khoa học Việt Nam chủ yếu nhờ vào các công trình hợp tác với đồng nghiệp nước ngoài. Qua phân tích, một số đề nghị được đưa ra nhằm cải tiến tình hình: (a) hướng đến việc công bố nghiên cứu trên các tập san khoa học quốc tế như là một tiêu chuẩn để đánh giá (hay “nghiệm thu”?) một dự án khoa học; (b) khuyến khích các nghiên cứu sinh tiến sĩ công bố ít nhất một bài báo khoa học trên các tập san quốc tế trước khi bảo vệ luận án; (c) cần có chính sách đãi ngộ và tưởng thưởng các nhà khoa học trẻ có công trình công bố quốc tế; và (d) khuyến khích các tập san khoa học Việt Nam vươn đến tầm quốc tế.
1. Lượng và chất trong nghiên cứu khoa học
Bất cứ học thuyết xã hội nào cũng nhất trí một điều là nếu một quốc gia muốn trở thành một thành viên có uy tín trên trường quốc tế, ngoài vị trí kinh tế – chính trị, nghiên cứu và phát triển khoa học (R&D) đóng một vai trò then chốt. Bắt chước người khác, bán sản phẩm và công nghệ của người khác, hay gia công sản phẩm có thể đem lại vài thành quả ngắn hạn, nhưng không thể là nền móng cho phát triển về lâu dài. Khả năng bắt chước và khả năng sáng tạo có thể phân biệt qua các chỉ số phát triển công nghệ và các sản phẩm tri thức. Sản phẩm tri thức và sáng tạo được hình thành từ những nghiên cứu khoa học.
Đánh giá năng lực khoa học của một nước không đơn giản chút nào, vì thành tựu của nghiên cứu khoa học thường không thể cân đo đong đếm như sản phẩm kĩ nghệ. Không giống như hoạt động sản xuất kĩ nghệ với những sản phẩm vật chất cụ thể mà công chúng có thể sử dụng được cho cuộc sống hằng ngày, sản phẩm của nghiên cứu khoa học – nhất là nghiên cứu khoa học cơ bản – thường mang tính trừu tượng, rất ít khi nào gần gũi trực tiếp với người tiêu dùng. Trong nhiều trường hợp, thành tựu của nghiên cứu khoa học chỉ hiển nhiên sau vài ba chục năm sau khi công trình nghiên cứu hoàn tất. Chẳng hạn như các nghiên cứu về khả năng truyền dẫn hình ảnh qua fibre optics trong thập niên 1950, phải đợi đến 30 năm sau mới tìm được ứng dụng của thành tựu này qua việc phát triển các máy nội soi trong y khoa. Tương tự, khám phá về vai trò của testosterone (một hormone nội tiết nam) trong thập niên 1930, nhưng phải chờ đến 40 năm sau mới tìm thấy ứng dụng trong lâm sàng và chăn nuôi.
Mặc dù các phương pháp sử dụng để đánh giá khả năng khoa học vẫn còn trong vòng tranh cãi, nói chung cộng đồng quốc tế nhất trí rằng có thể sử dụng một số chỉ tiêu để xếp hạng khả năng khoa học giữa các nước. Chỉ tiêu quan trọng nhất là số lượng ấn phẩm khoa học và chất lượng nghiên cứu. Số lượng bài báo khoa học phản ảnh “sản lượng” của một nền khoa học, và mức độ đóng góp vào tri thức toàn cầu của một nước. Trên thế giới ngày nay có hơn 100.000 tập san khoa học đủ loại với chất lượng “thượng vàng hạ cám”; do đó, chỉ có một số tập san được cộng đồng khoa học quốc tế công nhận là nghiêm chỉnh và đáng tin cậy, và các tập san này (chỉ khoảng trên dưới 4000) nằm trong danh mục của tổ chức Thomson Scientific Information (trước đây gọi là ISI hay Institute of Scientific Information). Trung Quốc có 4497 tập san khoa học (số liệu năm 2003), nhưng chỉ có 67 tập san được công nhận và liệt kê trong danh bạ của ISI. Hằng năm, tổ chức Thomson thu thập tất cả các bài báo trên thế giới, kể cả các chi tiết như tên và địa chỉ của tác giả, nước xuất phát, đề tài, lĩnh vực nghiên cứu, năm công bố, số lần trích dẫn, v.v… Dựa vào các số liệu này, chúng ta có thể đánh giá một phần tình trạng hoạt động nghiên cứu khoa học ở nước ta và so sánh với các nước trong vùng 1
Đánh giá chất lượng nghiên cứu là một việc làm rất khó, vì cộng đồng khoa học vẫn chưa nhất trí một chuẩn mực thống nhất cho tất cả các lĩnh vực nghiên cứu. Tuy nhiên, hai chỉ số thường được sử dụng để ước định chất lượng của một công trình nghiên cứu khoa học là hệ số ảnh hưởng (còn gọi là impact factor), và số lần trích dẫn (citation index). Theo định nghĩa được công nhận, hệ số ảnh hưởng là số lần trích dẫn hay tham khảo trung bình các bài báo mà tạp chí đã công bố hai năm trước 2 Do đó, những công trình nghiên cứu được công bố trên các tạp chí có hệ số ảnh hưởng cao cũng có thể đồng nghĩa với chất lượng cao của công trình nghiên cứu. Chẳng hạn như một nghiên cứu được công bố trên các tạp chí như Science, Nature, Cell, PNAS, New England Journal of Medicine, Lancet, v.v… chắc chắn phải có chất lượng cao hơn các nghiên cứu công bố trên các tạp chí ở Á châu, Âu châu hay tạp chí chuyên ngành ở Mỹ. Tuy nhiên, hệ số ảnh hưởng của tạp chí cũng tùy thuộc vào bộ môn khoa học (chẳng hạn như các tập san thuộc bộ môn khoa học thực nghiệm thường có hệ số tác dụng cao hơn các tập san trong các ngành khoa học tự nhiên và toán học).
Nhưng hệ số ảnh hưởng chỉ phản ánh uy tín của tạp chí chứ không hẳn phản ảnh chất lượng của một bài báo cụ thể. Vì thế, một cách đánh giá chất lượng khác công bằng hơn là tính số lần các nhà khoa học khác trích dẫn bài báo mà nhà khoa học đã công bố. Có thể nói ví von rằng số lần trích dẫn là âm vang của một công trình nghiên cứu. Một công trình nghiên cứu có chất lượng có khả năng gây ảnh hưởng trong chuyên ngành, và được nhiều đồng nghiệp trên thế giới trích dẫn. Do đó, chỉ số trích dẫn phản ảnh khá chính xác chất lượng một công trình nghiên cứu khoa học. Chỉ số ảnh hưởng và chỉ số trích dẫn phản ảnh chất lượng khoa học. Thật vậy, một nghiên cứu trong thập niên 1970 về tần số trích dẫn các nghiên cứu công bố trước khi các nhà khoa học được trao giải Nobel cho thấy tính trung bình, số lần trích dẫn là 62 (so với tần số trung bình của tất cả các nhà khoa học là 6 lần). Do đó, dù có vài biệt lệ và khiếm khuyết, số lần trích dẫn và hệ số ảnh hưởng của tạp chí phản ảnh chất lượng nghiên cứu.
Liên quan đến Việt Nam, theo tôi biết vẫn chưa có một phân tích về chất lượng nghiên cứu khoa học qua số lần trích dẫn một cách chi tiết và so sánh với các nước khác trong vùng. Vì thế, tôi tiến hành một phân tích về chất lượng các ấn phẩm khoa học trên các tập san khoa học quốc tế. Phân tích này nhằm trả lời hai câu cụ thể: thứ nhất, chất lượng nghiên cứu khoa học đang ở vị trí nào; và thứ hai, có mối liên hệ nào giữa ấn phẩm khoa học và đầu tư cho khoa học. Hi vọng qua kết quả trả lời hai câu hỏi trên, các nhà chức trách có thể tìm cách để nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học ở nước ta.
Để trả lời hai câu hỏi trên, tôi sử dụng hệ thống “Web of Science” của Viện Thông tin Khoa học (Institute of Scientific Information) để thu thập số lượng ấn phẩm khoa học, và tần số trích dẫn cho từng bài báo từ Việt Nam. Về số lượng ấn phẩm, tôi chọn thời gian khảo sát trong vòng 10 năm, từ 1996 đến 2005. Để phân tích chất lượng ấn phẩm nghiên cứu, tôi chọn các ấn phẩm trong thời gian 2000-2001. Tôi chọn thời gian này vì hai lí do chính : (a) một bài báo khi đã công bố đòi hỏi thời gian để cộng đồng khoa học thẩm định và tham khảo, và qua kinh nghiệm, chúng tôi chọn thời gian 5 năm sau công bố để tính số lần trích dẫn vì thời gian 5 năm có thể nói là “đủ” để một công trình nghiên cứu có khả năng gây tác động ; và (b) số lượng bài báo hàng năm từ Việt Nam còn thấp (dao động khoảng 330 đến 350 bài), cho nên nếu làm phân tích số bài báo trong vòng một năm e rằng không đủ số liệu để phân tích theo chuyên ngành, và vì thế chúng tôi quyết định chọn thời gian 2 năm để tăng số lượng bài báo và qua đó tăng độ tin cậy thống kê của các ước số.
2. Ấn phẩm khoa học 1996-2005
Trong thời gian 1996 đến 2005, có tất cả 3.456 bài báo khoa học trên các tập san ISI có địa chỉ từ Việt Nam. Con số bài báo từ Việt Nam nếu mới nhìn qua có thể gây “ấn tượng”, nhưng trên thực tế, chỉ bằng 1/5 của Thái Lan, 1/3 của Malaysia , và 1/14 của Singapore. Ngay cả so với Philippines (3901 bài) và Indonesia (4389 bài), số bài báo khoa học từ nước ta vẫn thấp hơn.
Lĩnh vực nghiên cứu. Bảng 1 sau đây cho thấy một số xu hướng đáng chú ý giữa các nước. Chẳng hạn như Thái Lan khá mạnh về lĩnh vực y sinh học (số bài báo trong lĩnh vực này chiếm gần 43% tổng số bài báo khoa học từ Thái Lan), trong khi đó Singapore thì mạnh về các lĩnh vực kĩ thuật (chiếm 40% tổng số bài báo khoa học). Philippines là nước có nhiều bài báo về nông nghiệp (chiếm gần 29% tổng số bài báo khoa học), tức gần gấp hai hay ba lần Việt Nam, Indonesia , Malaysia hay Thái Lan.
Số lượng bài báo khoa học liên quan đến ngành toán và vật lí từ Việt Nam chiếm gần một phần tư tổng số bài báo khoa học, nhưng ở các nước như Thái Lan, Malaysia , Indonesia và Philippines con số này chỉ dao động từ 0,5% đến 4%. Ngay cả ở Singapore, các bài báo toán học và vật lí học cộng lại chỉ khoảng 11%, chưa bằng tỉ lệ của một ngành toán ở Việt Nam. Các kết quả này cho thấy ngành toán và vật lí là hai ngành “mạnh” ở nước ta. Tuy nhiên, khi so sánh với các lĩnh vực khác trong nước thì số lượng bài báo từ ngành y sinh học chiếm đến 24% (tức gấp hai lần số bài về toán hay vật lí) tổng số bài báo khoa học.
Malaysia tuy rất khiêm tốn về toán, nhưng tỉ lệ bài báo liên quan đến ngành kĩ thuật và hóa học thì cao gần gấp hai tỉ lệ của Việt Nam và các nước trong vùng. Điều đáng ngạc nhiên là công nghệ sinh học thuần túy còn rất khiêm tốn ở trong vùng, với số lượng bài báo khoa học chỉ dao động trong khoảng 1-4%.
Bảng 1. Phần trăm các bài báo khoa học 1996-2005 tính cho từng nước và phân chia theo lĩnh vực nghiên cứu |
||||||
Lĩnh vực nghiên cứu |
Việt |
Thái Lan |
Malaysia |
|
Philippines |
|
Y sinh học |
24,3 |
42,8 |
22,4 |
29,5 |
25,0 |
16,6 |
Toán |
11,0 |
0,8 |
2,3 |
0,5 |
2,1 |
3,8 |
Vật lí |
12,9 |
1,5 |
2,0 |
4,4 |
2,1 |
6,8 |
Kĩ thuật |
10,5 |
16,4 |
22,2 |
14,8 |
9,3 |
40,4 |
NN |
12,6 |
9,2 |
10,0 |
14,7 |
28,7 |
0,9 |
Hóa học |
12,9 |
13,6 |
20,0 |
13,0 |
5,0 |
11,9 |
Vật liệu |
5,8 |
5,1 |
10,9 |
3,6 |
2,8 |
11,4 |
MT |
4,0 |
5,3 |
3,7 |
11,9 |
14,5 |
1,8 |
Kinh tế |
2,5 |
1,2 |
2,5 |
4,0 |
3,5 |
3,4 |
CNSH |
1,3 |
2,3 |
2,2 |
1,7 |
3,8 |
0,9 |
KHXH |
1,6 |
1,3 |
1,4 |
1,3 |
2,7 |
1,7 |
Tổng cộng |
100 (n=3456) |
100 (n=14594) |
100 (n=9742) |
100 (n=4389) |
100 (n=3901) |
100 (n=45633) |
Chú thích: Vì làm chẵn, cho nên khi cộng lại tổng số có thể trên hay dưới 100%; n là tổng số bài báo trong thời gian 1996-2005. |
Nội lực và hợp tác. Một điều đáng quan tâm hơn là phần lớn các nghiên cứu khoa học từ Việt Nam còn phụ thuộc vào các “ngoại lực” quá nhiều. Theo một phân tích trước đây của giáo sư Phạm Duy Hiển 3, có đến 75% các công trình khoa học từ Việt Nam do đứng tên chung hoặc hợp tác với các đồng nghiệp nước ngoài.
Trong phân tích này, tôi ghi nhận khoảng 20% các bài báo công bố trong thời gian 2000-2001 là do nội lực (tức không hợp tác với đồng nghiệp nước ngoài). Tuy nhiên tỉ lệ nội lực dao động rất lớn giữa các ngành (Biểu đồ 1). Chẳng hạn như trong ngành y sinh học, một ngành tương đối thế mạnh và ổn định ở nước ta, trong số 164 bài báo được công bố trên các tập san quốc tế, chỉ có 5 bài (3%) là do nội lực, nhưng các ngành có tỉ lệ nội lực cao là toán (66%), kĩ thuật (~40%) và kinh tế học (41%). Riêng 11 bài báo liên quan đến ngành công nghệ sinh học, 100% là do hợp tác với nước ngoài. Chưa có dữ liệu về các công trình nội lực và hợp tác cho các nước trong vùng, nên chưa thể so sánh với nước ta.
Biểu đồ 1. Phần trăm bài báo hoàn toàn do nội lực. Ghi chú: YS=y sinh học, KT=kĩ thuật, NN=nông nghiệp, VL=vật liệu, MT=môi trường, KTế=kinh tế, CNSH=công nghệ sinh học, KHXH=khoa học xã hội. |
Phân tích tăng trưởng cho tất cả các nước trong vùng đều có xu hướng tăng trưởng số lượng bài báo khoa học, nhưng mức độ tăng trưởng khác nhau giữa các nước (Biểu đồ 2). Tính trung bình, ấn phẩm khoa học Việt Nam tăng khoảng 26% mỗi năm (41 bài/năm); tỉ lệ tăng trưởng này tương đương với Singapore (khoảng 27% hay 480 bài/năm) và Malaysia (24% hay 114 bài/năm), cao hơn Indonesia (tăng 9% hay 29 bài/năm) và Philippines (8% hay 23 bài/năm), nhưng thấp hơn Thái Lan (45% hay 222 bài/năm).
Biểu đồ 2. Số lượng bài báo từ một số nước Đông Nam Á công bố trên các tập san khoa học quốc tế tính từ 1996 đến 2005 (biểu đồ bên trái), và cụ thể cho 3 nước Việt Nam, Indonesia và Philippines với số lượng bài báo dưới 1000 (biểu đồ phía phải). |
Phân tích tốc độ tăng trưởng số bài báo khoa học từng ngành trong hai thời kì 1996-2000 và 2001-2005 (Biểu đồ 3) cho thấy các ngành “khiêm tốn” (tức có ít bài báo khoa học so với tổng thể) thường có tỉ lệ tăng trưởng cao hơn những ngành được xem là “mạnh” của nước ta như toán học. Chẳng hạn như ngành môi trường học, số bài báo trong thời kì 2001-2005 tăng gấp 2,74 lần so với thời kì 1996-2000 (từ 51 tăng lên 140 bài), nông nghiệp tăng 2,67% (từ 92 lên 246 bài), công nghệ sinh học tăng 2,62 lần (từ 16 tăng lên 42 bài). Đáng chú ý là ngành y sinh học vẫn duy trì tốc độc tăng trường gần 2 lần trong thời kì 2001-2005 so với 1996-2000. Tuy nhiên, ngành toán có tỉ lệ tăng trưởng dưới trung bình (20%).
Biểu đồ 3. Phần trăm tăng trưởng số bài báo khoa học từ Việt |
3. “Chất lượng” nghiên cứu khoa học
Một bài báo khi đã công bố đòi hỏi thời gian để cộng đồng khoa học thẩm định và tham khảo. Nói chung, một bài báo có ảnh hưởng lớn là một bài báo được nhiều đồng nghiệp trích dẫn và tham khảo trong những năm sau đó. Để đánh giá chất lượng nghiên cứu khoa học, tôi xem xét những bài báo công bố trong năm 2000-2001 và thu thập số lần trích dẫn những bài báo này trong 5 năm sau. Tính trung bình, mỗi bài báo từ Việt
Bảng 2. Số lượng bài báo từ một số nước Đông Nam Á công bố trên các tập san khoa học quốc tế trong thời gian 2000-2001, và số lần trích dẫn từ 2001 đến 2006 |
||||
Nước |
Số lượng bài báo 2000-2001 |
Tổng số lần trích dẫn 2001-2006 |
Số lần trích dẫn trung bình trên mỗi bài báo |
Hệ số h (1) |
Việt |
675 |
6576 |
9,74 |
33 |
Thái Lan |
2.590 |
23.550 |
9,09 |
50 |
Malaysia |
1.810 |
11.681 |
6,45 |
37 |
|
954 |
9036 |
9,47 |
36 |
Philippines |
717 |
6.688 |
9,33 |
32 |
|
7.605 |
70.393 |
9,26 |
75 |
Chú thích: Tổng số bài báo tính từ cơ sở dữ liệu của |
Số lần trích dẫn bao nhiêu là cao? Không có câu trả lời cụ thể cho câu hỏi này, nhưng theo phân tích của ISI, trong tất cả các bài báo khoa học công bố trên thế giới, có khoảng 55% không bao giờ được ai (kể cả chính tác giả) trích dẫn hay tham khảo sau 5 năm công bố 4. Trong các ngành như kĩ thuật tần số không trích dẫn lên đến 70%. Ngay cả được trích dẫn và tham khảo, con số cũng rất khiêm tốn : chỉ có trên dưới 1% bài báo khoa học được trích dẫn hơn 6 lần mà thôi (trong vòng 5 năm). Do đó, có người đề nghị là một bài báo được trích dẫn một cách độc lập (tức không phải chính tác giả tự trích dẫn) hơn 5 lần được xem là “có ảnh hưởng”. Những công trình có ảnh hưởng lớn thường có số lần trích dẫn 100 lần trở lên.
Nếu tính theo số lần trích dẫn trên 5 lần trong vòng 5 năm thì có thể nói rằng chất lượng các nghiên cứu từ Việt Nam cũng có phần khả quan. Tính trung bình, khoảng 42% các bài báo từ Việt Nam được trích dẫn trên 5 lần, tức là cao hơn số trung bình trên thế giới. Các ngành khoa học Việt Nam có trích dẫn cao thường là các ngành khoa học thực nghiệm như y sinh học, hóa học, nông nghiệp, môi trường và công nghệ sinh học.
Tuy nhiên chỉ số này không phản ánh đúng thực tế vì có hai bài báo y học từ Việt Nam có số lần trích dẫn rất cao (995 lần và 230 lần), do đó chi phối đến cách tính toán. Do đó, một hệ số khác khách quan hơn là hệ số h [5]. Việt Nam có hệ số h thuộc vào hàng thấp nhất (h = 33, tương đương với Phi Luật Tân) so với các nước trong vùng Singapore và Thái Lan có nhiều bài báo có ảnh hưởng hơn nước ta.
Một cách khác để gián tiếp đánh giá chất lượng là xem xét tỉ lệ các bài báo chưa bao giờ được trích dẫn. Có khoảng 1/5 các bài báo khoa học từ Việt Nam chưa bao giờ được trích dẫn sau 5 năm công bố. Đây cũng là tình trạng chung ở các nước trong vùng, với tỉ lệ chưa bao giờ trích dẫn (trong vòng 5 năm) được ghi nhận tại Thái Lan (15%), Malaysia (19%), Indonesia (19%), Philippines (13%), và Singapore (17%).
Phân tích chi tiết tần số trích dẫn tất cả các bài báo từ Việt Nam công bố trong thời gian 1996-2005 cho từng lĩnh vực nghiên cứu (Bảng 3) cho thấy một vài xu hướng đáng chú ý. Tính chung, gần 1/4 (23%) các công trình nghiên cứu từ Việt Nam chưa hề được trích dẫn trong thời gian 10 năm. Những ngành có tỉ lệ chưa trích dẫn thấp là y sinh học và hóa học (khoảng 17 đến 18%), tiếp đến là các ngành như khoa học xã hội, môi trường học, công nghệ sinh học, nông nghiệp, kinh tế học, và vật lí (dao động trong khoảng 22% đến 32%). Riêng hai ngành toán và kĩ thuật, có đến 44% bài báo chưa được trích dẫn lần nào trong vòng 1996-2005.
Bảng 3. Số lần trích dẫn (hay không trích dẫn) của các bài báo khoa học từ Việt Nam phân tích theo lĩnh vực nghiên cứu |
||||
Lĩnh vực nghiên cứu |
Số bài báo trong thời gian 1996-2005 |
Số lần trích dẫn (% tổng số bài báo) |
||
Chưa trích dẫn lần nào |
1 đến 5 lần |
6 lần trở lên |
||
Y sinh học |
1149 |
17,8 |
39,9 |
42,2 |
Toán |
452 |
43,8 |
43,8 |
12,4 |
Vật lí |
450 |
30,9 |
46,7 |
22,4 |
Kĩ thuật |
406 |
43,8 |
38,4 |
17,7 |
NN |
406 |
31,3 |
43,6 |
25,1 |
Hóa học |
385 |
17,4 |
43,9 |
38,7 |
Vật liệu |
288 |
28,8 |
50,7 |
20,5 |
MT |
228 |
25,9 |
50,4 |
23,7 |
Kinh tế |
141 |
31,9 |
52,5 |
15,6 |
CNSH |
67 |
26,9 |
38,8 |
34,3 |
KHXH |
69 |
21,7 |
58,0 |
20,3 |
Tổng số |
3456 |
23,1 |
44,5 |
32,4 |
Một cách so sánh có ý nghĩa hơn là ước tính chỉ số trích dẫn tương đối (relative citation index hay RCI) [6], vì chỉ số này phản ảnh một phần chất lượng nghiên cứu khoa học của một nước và mức độ ảnh hưởng trên thế giới. Tính theo chỉ số này, chất lượng và ảnh hưởng của nghiên cứu khoa học Việt Nam thuộc vào hàng cao nhất trong vùng, với RCI = 0,59. Malaysia là nước tuy có nhiều bài báo khoa học hơn nước ta, nhưng số lần trích dẫn không cao và cũng chẳng gây ảnh hưởng lớn trên trường quốc tế, do đó chỉ số RCI chỉ 0,39. Ngay cả các nước khác có sản lượng khoa học cao như Singapore và Thái Lan cũng có hệ số RCI thấp hơn Việt Nam. Sở dĩ có kết quả này là vì trong năm 2000-2001, có hai công trình y sinh học từ Việt Nam với hơn 200 lần trích dẫn, và làm tăng số lần trích dẫn trung bình cho nước ta. Tuy nhiên, nếu chúng tôi loại bỏ hai bài báo này ra khỏi phương trình tính toán thì hệ số RCI của Việt Nam vẫn thuộc vào hạng cao nhất trong vùng (Bảng 4).
Bảng 4. Chỉ số trích dẫn tương đối của một số nước trên thế giới. |
|
Nước |
Chỉ số RCI |
Mỹ |
1,42 |
Anh |
1,14 |
Nhật |
0,78 |
Đức |
0,86 |
Pháp |
0,87 |
Canada |
1,00 |
Úc |
0,97 |
Ý |
0,75 |
Hà Lan |
1,10 |
Thụy Điển |
1,24 |
Thụy Sĩ |
1,16 |
Trung Quốc |
0,27 |
Chất lượng của công trình hợp tác và nội lực. Tính trung bình, các công trình nội lực có chất lượng thấp hơn các công trình hợp tác với nước ngoài. Mỗi công trình nội lực được trích dẫn trung bình là 3,2 lần, trong khi đó công trình hợp tác có chỉ số trích dẫn trung bình là 11,6 lần. Xu hướng này thể hiện gần như trong tất cả các ngành khoa học (Biểu đồ 4).
Như đề cập trên, ngành y sinh học có số lần trích dẫn cao nhất, kế đến là ngành vật lí, hóa học và môi trường học. Nhưng phân tích theo nội lực và hợp tác cho chúng ta một “bức tranh” hoàn toàn khác: các công trình y học được trích dẫn nhiều là những công trình hợp tác với nước ngoài (chỉ số trích dẫn trung bình là 16) chứ không phải công trình nội lực (chỉ số trích dẫn chỉ 3,6 lần). Sự chênh lệch thiên về các công trình hợp tác như thế cũng thấy trong các ngành như vật lí (12 so với 4,5), hóa học (10,8 so với 3,4), và kĩ thuật (9,3 so với 1,5).
Biểu đồ 4. Số lần trích dẫn trung bình cho mỗi bài báo công bố trong thời gian 2000-2001 phân tích theo hợp tác (ô đặc) và nội lực (ô chéo). Ghi chú: YS=y sinh học, KT=kĩ thuật, NN=nông nghiệp, VL=vật liệu, MT=môi trường, KTế=kinh tế, CNSH=công nghệ sinh học, KHXH=khoa học xã hội. |
4. Đầu tư cho khoa học và công nghệ
Trong năm 2006, Việt Nam đầu tư 428 triệu USD cho khoa học và công nghệ (KH&CN), chiếm khoảng 0,17%
Bảng 5. Năng suất khoa học (bài báo) tính trên dân số, tổng sản lượng quốc gia ( |
|||||
Nước |
Dân số trung bình (1000) |
|
Đầu tư vào khoa học và công nghệ (triệu USD) |
Số bài báo trên 100.000 dân |
Số bài báo trên 1 triệu USD đầu tư vào KH&CN |
Việt |
87.375 |
251,8 |
428,1 |
4 |
8 |
Thái Lan |
62.828 |
596,5 |
1789,5 |
23 |
8 |
Malaysia |
27.122 |
308,8 |
1544,0 |
36 |
6 |
|
234.694 |
1.038,0 |
519,0 |
2 |
8 |
Philippines |
88.706 |
508,0 |
609,6 |
4 |
6 |
|
4.680 |
137,8 |
3031,6 |
8338 |
13 |
Nguồn: Số liệu về dân số và |
Những số liệu về số lượng bài báo khoa học và so sánh với các nước trong vùng cho thấy rõ ràng rằng mức độ đóng góp cho tri thức toàn cầu từ các nhà khoa học nước ta nói chung vẫn còn khá lu mờ. Sự có mặt của khoa học Việt
Trái lại với nhiều cảm nhận thông thường cho rằng ngành toán và vật lí nước ta ở vị trí “mạnh”, phân tích của chúng tôi cho thấy cảm nhận này không có cơ sở. Thật vậy, ngành y sinh học (chứ không phải toán học và vật lí) mới là ngành có nhiều đóng góp cho khoa học nước ta. Hai ngành toán học và vật lí mỗi ngành chỉ đóng góp khoảng 10% cho tổng số ấn phẩm khoa học Việt Nam, tương đương với nông nghiệp, kĩ thuật và hóa học. Một điều đáng chú ý là đóng góp của ngành toán cho tổng sản lượng khoa học đang có xu hướng giảm, vì tỉ lệ tăng trưởng dưới trung bình. Ngược lại, sự tăng trưởng nhanh của các ngành như nông nghiệp, công nghệ sinh học, và môi trường học là một tín hiệu đáng mừng, vì nó cho thấy các bộ môn khoa học thực nghiệm quan trọng này đang có chuyển biến theo chiều hướng tích cực.
Về chất lượng nghiên cứu khoa học, nói chung, dù số lượng bài báo từ Việt
Tại sao số lượng bài báo khoa học từ nước ta thấp hơn, nhưng chỉ số RCI cao hơn, các nước trong vùng Đông Nam Á và vài nơi trên thế giới? Tôi nghĩ đến hai giả thuyết để giải thích cho tình trạng vừa nêu. Thứ nhất, các nước như Singapore và Thái Lan có một số tập san nội địa xuất bản bằng tiếng Anh được công nhận và nằm trong danh bạ của ISI, nhưng các tập san này thường công bố những công trình nghiên cứu có chất lượng thấp (hiểu theo nghĩa ít người quan tâm và ít trích dẫn). Có khả năng là các nhà khoa học địa phương không thành công đăng bài ở các tập san quốc tế họ đăng ở các tập san địa phương, và do đó chỉ số trích dẫn cũng như RCI của họ không cao. Trong khi đó, các nhà khoa học Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất là công bố nghiên cứu của họ trên các tập san bên Mỹ hay Âu châu, thường có hệ số ảnh hưởng (impact factor) cao hơn các tập san Singapore hay Thái Lan, nên hệ quả là chỉ số RCI của Việt Nam khá cao. Thứ hai, các nghiên cứu từ Việt Nam phần lớn dựa vào hợp tác với các đồng nghiệp nước ngoài (như chúng tôi vừa trình bày) và các tác giả này có xu hướng công bố trên các tập san quốc tế có uy tín cao, và do đó chỉ số trích dẫn các bài báo từ Việt Nam cũng có thể tăng cao. Điều này có thể đúng vì những nghiên cứu về các bệnh nhiệt đới từ Việt Nam (và chỉ có thể thực hiện ở các nước như Việt Nam) rất được đồng nghiệp thế giới chú ý, và qua đó gia tăng hệ số ảnh hưởng trung bình của các công trình nghiên cứu từ Việt Nam.
Tôi nghĩ cả hai giả thuyết trên đây đều có cơ sở. Gần 80% các bài báo khoa học từ Việt Nam trong thời gian 2000-2001 là do hợp tác với các đồng nghiệp nước ngoài. (Con số này, tỉ lệ hợp tác với nước ngoài, ở Anh và Úc là khoảng 25%). Nhìn chung, các công trình hợp tác với nước ngoài có chất lượng tương đối cao hơn các công trình do nội lực. Có đến gần 1/3 các công trình do nội lực chưa bao giờ được trích dẫn trong vòng 5 năm, trong khi đó con số này là 16% cho các công trình hợp tác. Trong thực tế, có vài công trình nghiên cứu từ Việt Nam (chẳng hạn như công trình giải mã gene vi khuẩn SARS và nghiên cứu về dịch cúm gà) có ảnh hưởng cực kì lớn trên trường quốc tế, với số lần trích dẫn trong vòng 5 năm lên đến gần con số 1000! Nhưng chỉ có ngành y sinh học là có gây chút ảnh hưởng và tiếng vang, còn các ngành khác thì dưới trung bình. Điều này cho thấy hợp tác với đồng nghiệp nước ngoài có thể nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học.
Gần 44% các công trình nghiên cứu về toán và kĩ thuật không/chưa được trích dẫn trong thời gian 10 năm. Tuy nhiên, con số này có thể không phản ảnh chất lượng nghiên cứu ngành toán và kĩ thuật thấp, mà có thể phản ảnh “văn hóa” hai ngành này với những nghiên cứu tập trung vào các lĩnh vực hẹp mà số người theo đuổi trên thế giới không nhiều như các ngành khác. Ngoài ra, các công trình toán học thường trừu tượng và tiềm năng ứng dụng chỉ hiển nhiên sau vài mươi năm, cho nên số lần trích dẫn không thể cao như các ngành khoa học thực nghiệm.
Trong ngành y sinh học, một ngành tương đối thế mạnh và ổn định ở nước ta, tôi đã chỉ ra trước đây rằng chỉ có 2% trong số các công trình được công bố trên các tập san quốc tế là do nội lực!
Nghiên cứu khoa học ở tầm quốc tế đòi hỏi các phương tiện khoa học tương đối đắt tiền. Vì hoàn cảnh kinh tế, nước ta còn thiếu những phương tiện như thế, và có lẽ đó cũng chính là lời giải thích tại sao các nhà khoa học trong nước phải hợp tác với các đồng nghiệp nước ngoài. Thật ra, hợp tác trong nghiên cứu là một điều tốt trong hoạt động khoa học hiện đại, nhưng hợp tác như thế nào để thành quả và tri thức khoa học dựa trên chất liệu của Việt Nam vẫn là của người Việt Nam thì mới là vấn đề mà tôi đã nêu ra gần đây, nhất là hiện tượng “hợp tác khoa học theo kiểu nhảy dù”8, mà trong đó các tác giả Việt Nam chỉ là “lính đánh bộ” và sở hữu tri thức vẫn là tác giả nước ngoài, dù chất liệu nghiên cứu là từ Việt Nam và của người Việt Nam!
Kinh nghiệm từ các nước đang phát triển cho thấy tình trạng “khoa học nhảy dù” 8 mà trong đó các đồng nghiệp từ nước ngoài thường có xu hướng “dành công” cho mình dù công trình nghiên cứu được thực hiện ở nội địa và sử dụng chất liệu từ nước đang phát triển. Theo một nghiên cứu chưa đầy đủ cho thấy tính từ 1993 đến 1998, tập san British Medical Journal công bố 59 bài báo với sự hợp tác giữa các nhà khoa học các nước Tây phương và các nước đang phát triển; trong số này, 58% bài báo mà tác giả đứng đầu là các nhà khoa học Tây phương. Tỉ lệ khoa học nhảy dù ở tập san Lancet là 57% (trong số 82 bài báo). Trong thời gian trên, tập san Science công bố 6 bài báo hợp tác, và tất cả đều do các nhà khoa học Tây phương đứng tên tác giả đầu. Tập san có ảnh hưởng càng cao, tỉ lệ khoa học nhảy dù hay khoa học thuộc địa càng cao. Nói cách khác, các nhà khoa học Tây phương chỉ “tử tế” với các nhà khoa học địa phương chỉ khi nào các bài báo đăng trên các tập san có ảnh hưởng thấp, nhưng với các bài báo trên các tập san ảnh hưởng lớn thì họ dành quyền đứng tên tác giả đầu. Trong phân tích này, chúng tôi thấy trong số 17 công trình từ Việt
Tại sao các công trình nghiên cứu do nội lực có chất lượng thấp (hiểu theo nghĩa chỉ số trích dẫn thấp) hơn các công trình nghiên cứu do hợp tác ? Những công trình nghiên cứu có chỉ số trích dẫn thấp thường do một hay cả hai yếu tố : thiếu cái mới trong ý tưởng, phương pháp nghiên cứu hạn chế, và thiếu kĩ năng trong hoạt động khoa học. Tôi sẽ giải thích các ý kiến đó như sau :
Ý tưởng thiếu cái mới dẫn đến những công trình nghiên cứu lặp lại những gì người khác đã làm, và do đó không có cơ hội được công bố trên các tập san có chỉ số ảnh hưởng cao. Nguyên nhân chính của thiếu cái mới trong ý tưởng là do thiếu thông tin và trình độ của nhà khoa học. Ở Việt Nam, tình trạng thiếu thông tin cực kì trầm trọng. Nhiều thư viện trường đại học chẳng khác gì một thư viện trung học ở nước ngoài ; chẳng những thế, không có đủ sách, và ngay cả có sách thì phần lớn đều lạc hậu. Thư viện trường cũng thiếu các tập san khoa học nghiêm trọng, dẫn đến vấn đề thiếu cập nhật hóa thông tin, và nhà khoa học chẳng khác gì người mù đi trong đêm tối, vì không biết được những gì đã, đang hay sắp xảy ra trong lĩnh vực chuyên môn. Một giảng viên trẻ bức xúc nói: “Những người muốn làm nghiên cứu như tôi phải bỏ tiền ra mua. Tôi chi một số tiền tương đối lớn để làm thành viên của các tổ chức cung cấp tài liệu, để được đọc các tài liệu. Đáng lẽ những việc như vậy trường có thể hỗ trợ bằng cách mua.” Trong bối cảnh thiếu thốn thông tin như mô tả trên đây, thật là không công bằng nếu ta đòi hỏi các nhà khoa học trong nước phải có những công trình nghiên cứu chất lượng cao, nghiên cứu tiền phong. Với tình trạng thiếu thông tin như thế, làm sao chúng ta có thể kì vọng các nhà khoa học nước ta sánh vai cùng các đồng nghiệp ở các trường lớn trên thế giới. Ngoài ra, nước ta thiếu các chuyên gia đầu ngành có tầm cỡ quốc tế, cho nên thiếu những công trình nghiên cứu mang tầm vóc quốc tế, mà chỉ loay hoay giải quyết các vấn đề đơn giản, địa phương.
Phương pháp nghiên cứu, kể cả thiết bị, còn hạn chế và lạc hậu. Tình trạng này bắt buộc các nhà khoa học ta chỉ làm những nghiên cứu đơn giản, không thể đột phá, và cũng không có giá trị khoa học cao. Thật vậy, khi chúng tôi xem qua các công trình nghiên cứu y sinh học, một lĩnh vực mà chúng tôi quen thuộc, phần lớn các nghiên cứu y học nước ta chỉ tập trung vào các vấn đề y tế công cộng, bệnh truyền nhiễm và y học nhiệt đới; chỉ có 7% là các công trình liên quan đến sinh học phân tử. Trong 10 lĩnh vực nghiên cứu hàng đầu không có các nghiên cứu về gien và di truyền học hay nghiên cứu về nội khoa và y học lâm sàng. Tuy nhiên, tình trạng này cũng là tình trạng chung ở các nước như Thái Lan, Malaysia và Indonesia. Riêng Singapore thì gần như ở một “đẳng cấp” khác, vì phần lớn nghiên cứu ở đây tập trung vào các công trình mang tính “công nghệ cao” như sinh học phân tử, sinh hóa, công nghệ sinh học, di truyền học, thần kinh học, ung thư học và y học lâm sàng.
Tại sao sự có mặt của khoa học Việt Nam trên trường quốc tế còn khiêm tốn và chưa gây được ảnh hưởng lớn? Có lẽ câu trả lời mà nhiều người muốn nói ngay là đầu tư thấp. Nếu dựa vào mối liên hệ giữa đầu tư cho khoa học và công nghệ, có thể giải thích rằng sự đóng góp khiêm tốn của Việt Nam là do đầu tư của Nhà nước cho hoạt động này còn quá thấp, và nếu tăng đầu tư thì sản lượng khoa học sẽ tăng (như Biểu đồ 5 hàm ý). Có lẽ suy luận này quá đơn giản với giả định sản lượng khoa học liên hệ nhân quả với đầu tư, nhưng trong thực tế thì còn nhiều yếu tố khác. Thật vậy, đầu tư thấp chỉ là một lí do nhỏ, vì ngay cả số đầu tư khiêm tốn năm nay (428 triệu USD) mà Bộ Khoa học và Công nghệ còn phải hoàn trả cho ngân sách 125 tỉ đồng (khoảng 7,9 triệu USD) cho ngân sách Nhà nước vì không thể phân phối hết số tiền đó cho nghiên cứu khoa học (Thời báo kinh tế Sài Gòn 4/10/2007). Năm ngoái, số tiền hoàn trả cho ngân sách Nhà nước thậm chí còn cao hơn (321 tỉ đồng, hay ~20 triệu USD). Do đó, vấn đề không phải là tăng đầu tư, mà là đầu tư và phân phối ngân sách sao cho có hiệu suất cao.
Biểu đồ 5. Mối tương quan giữa mức độ đầu tư cho KHCN và sản phẩm nghiên cứu khoa học ở các nước Đông Nam Á, chu kỳ 1996-2001. Liên quan giữa mức độ đầu tư cho khoa học và công nghệ (triệu USD) và số bài báo khoa học (Biểu đồ A) và số lần trích dẫn (Biểu đồ B). Mối liên hệ giữa bài báo khoa học (y), số lần trích dẫn (z) và đầu tư (X) có thể mô tả bằng phương trình |
Hiệu suất khoa học tùy thuộc vào hệ thống tổ chức hoạt động khoa học, nhân sự, chuẩn mực về nghiên cứu khoa học. Có thể nhìn cách phân phối kinh phí hiện nay ở nước ta như là một cuộc đấu thầu xây dựng. Cơ quan chủ quản (Bộ Y tế và Bộ KH&CN) ra đề tài, kêu gọi các nhà nghiên cứu đệ đơn, và các cơ quan chủ quản xét duyệt. Nhưng nhu cầu nghiên cứu y sinh học phải xuất phát từ thực tế lâm sàng và cộng đồng, chứ không thể xuất phát từ cơ quan quản lí hành chính, và do đó nhiều đề tài nghiên cứu mà các bộ đề ra không theo kịp trào lưu và định hướng của khoa học quốc tế và nhu cầu y tế thực tế trong nước.
Một nguyên nhân “nội tại” đáng quan tâm hơn là vấn đề nhân lực. Nước ta vẫn thiếu các chuyên gia có kinh nghiệm chuyên sâu, thiếu các nhà khoa học có kinh nghiệm làm nghiên cứu tầm cỡ quốc tế. Cho nên dù có phương tiện hiện đại và kinh phí, chưa chắc Việt
Một trong những lí do cho tình trạng khoa học Việt
6. Vài đề nghị
Nếu các phân tích trên đây gợi lên một số ý cho chính sách khoa học, chúng tôi nghĩ đến một số ý sau đây:
Thứ nhất, cần phải hướng đến việc công bố nghiên cứu trên các tập san khoa học quốc tế (sẽ gọi tắt là “công bố quốc tế”) hay đăng kí bằng sáng chế (patent) như là một tiêu chuẩn để đánh giá (hay “nghiệm thu”?)các công trình nghiên cứu do Nhà nước tài trợ. Ở các nước tiên tiến, đây cũng chính là tiêu chuẩn số 1 để các cơ quan tài trợ xem xét để cung cấp kinh phí nghiên cứu. Ở các đại học Tây phương và ngay cả đại học của các nước trong vùng, số lượng và chất lượng bài báo khoa học là tiêu chuẩn số một trong việc xét đề bạt lên chức giảng sư hay giáo sư 10. Đối với cá nhân nhà khoa học, báo cáo khoa học trên các tập san khoa học quốc tế là một “đơn vị tiền tệ”, là viên gạch xây dựng sự nghiệp khoa bảng. Chính vì thế mà trong các đại học tồn tại một văn hóa gọi là “publish or perish” (xuất bản hay là biến mất). Ngay tại viện của chúng tôi đang công tác, nếu trong vòng 1 hay 2 năm mà nhà khoa học hay nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ không có một bài báo nào đăng trên các tập san khoa học quốc tế, thì sự nghiệp của họ xem như “có vấn đề”.
Còn ở nước ta, trong thời gian nhiều năm qua, tiêu chuẩn công bố nghiên cứu trên các tập san khoa học quốc tế vẫn chưa được công nhận đúng mức. Hệ quả là đến nay chúng ta có một lực lượng giáo sư, kể cả một số “giáo sư hàng đầu”, chưa có công trình nào đăng trên các tập san khoa học quốc tế. Như một giáo sư nhận xét gần đây : “Chín vị giáo sư tiến sĩ khoa học là thành viên của Hội đồng ngành Cơ học VN không có công bố quốc tế ISI trong 10 năm vừa qua.” 11. Một điều đáng buồn ở nước ta là những nhà khoa học có công trình đăng trên các tập san quốc tế nhiều khi phải bị thiệt thòi so với các đồng nghiệp chưa bao giờ có bài báo đăng trên các tập san khoa học. Chẳng hạn như trường hợp một tiến sĩ ở Qui Nhơn với hơn 10 công trình đăng trên các tập san uy tín ở Âu châu và Mỹ, với thành tích như thế anh ấy đáng lẽ là một phó giáo sư ở nước ngoài, nhưng khi xét đề bạt giảng viên ở trong nước thì anh ta lại bị đánh giá là chưa đủ điểm !
Ngoài lí do mang liên quan đến quốc phòng và an ninh quốc gia, không có lí do gì để biện minh rằng công bố quốc tế chỉ áp dụng cho nghiên cứu khoa học cơ bản hay cho các nước đã phát triển. Thật ra, nước ta có nhiều công trình nghiên cứu rất xứng đáng được chia sẻ với cộng đồng khoa học thế giới, nhưng rất tiếc, cho đến nay các công trình đó vẫn loanh quanh trong các báo cáo nghiệm thu, và hệ quả là làm thiệt thòi cho khoa học nước nhà.
Có người viện dẫn lí do rằng chỉ có khoa học cơ bản mới công bố quốc tế, còn họ làm nghiên cứu ứng dụng nên không cần. Thật mà khó chấp nhận cách giải trình này. Ngoài lí do mang liên quan đến quốc phòng và an ninh quốc gia, không có lí do gì để biện minh rằng công bố quốc tế chỉ áp dụng cho nghiên cứu khoa học cơ bản hay cho các nước đã phát triển. Thật ra, nước ta có nhiều công trình nghiên cứu rất xứng đáng được chia sẻ với cộng đồng khoa học thế giới, nhưng rất tiếc, cho đến nay các công trình đó vẫn loanh quanh trong các báo cáo nghiệm thu, và hệ quả là làm thiệt thòi cho khoa học nước nhà.
Thứ hai, khuyến khích các nghiên cứu sinh tiến sĩ công bố ít nhất một bài báo khoa học trên các tập san quốc tế trước khi bảo vệ luận án. Đây cũng chẳng phải là một đòi hỏi gì cao siêu hay khắt khe, mà chỉ là một tiêu chuẩn, một yêu cầu phổ biến ở các đại học trong vùng và phương Tây 12. Dự thảo về đào tạo tiến sĩ của Bộ Giáo dục và Đào tạo mới đây cũng có qui định một nghiên cứu sinh tiến sĩ nên có công trình nghiên cứu khoa học được đăng trên các tập san quốc tế (có bình duyệt nghiêm chỉnh) trước khi bảo về luận án. Nếu tiêu chuẩn hay qui định này được thực hiện tốt, có thể kì vọng rằng sự có mặt của khoa học Việt Nam trên trường quốc tế sẽ được nâng cao trong vài năm tới.
Một vấn đề khác tuy nhỏ, nhưng có ý nghĩa quốc gia, cần phải đề cập đến ở đây là một số (nếu không muốn nói là nhiều) nghiên cứu sinh từ Việt Nam sang nghiên cứu hay làm luận án ở nước ngoài và khi công bố ấn phẩm khoa học thường không ghi địa chỉ từ Việt Nam, mà chỉ ghi địa chỉ nơi họ đang theo học. Tình trạng này chẳng những không hợp lí (vì cá nhân nghiên cứu sinh xuất phát từ Việt Nam) mà còn làm ảnh hưởng đến năng suất khoa học của Việt Nam trên trường quốc tế. Vấn đề này thoạt đầu mới nghe qua như là chuyện nhỏ, nhưng các đại học Tây phương xem là chuyện quan trọng đến nỗi lãnh đạo trường có hẳn những văn bản và điều lệ chính thức yêu cầu các nhà nghiên cứu phải ghi rõ địa chỉ đại học hay viện nghiên cứu mà họ đang công tác hay đang giữ những chức vụ kiêm nhiệm. Do đó, các đại học Việt Nam cần phải khuyến khích, hay nói đúng hơn là yêu cầu, các nghiên cứu sinh của trường ở nước ngoài khi công bố bài báo trên các tập san quốc tế, ngoài địa chỉ của trường họ đang theo học, cần phải đề tên trường Việt Nam vào phần địa chỉ tác giả của bài báo.
Thứ ba, cần có chính sách đãi ngộ và tưởng thưởng các nhà khoa học trẻ có công trình công bố quốc tế. Để nâng cao khả năng cạ
Thứ tư, cần phải khuyến khích các tập san khoa học Việt Nam vươn đến tầm quốc tế. Một trong những lí do mà Thái Lan và Singapore có nhiều bài báo khoa học hơn Việt Nam là hai nước này có các tập san khoa học, kể cả tập san y sinh học địa phương, được viết bằng tiếng Anh, có hệ thống bình duyệt và được ISI công nhận. Chẳng hạn như Thái Lan có tập san Journal of the Medical Association of Thailand (tập san y học của hội y học Thái Lan), tập san ScienceAsia, và Singapore có tập san Annals Academy of Medicine Singapore là diễn đàn của các bác sĩ và nhà khoa học địa phương. Vì các tập san này được ISI công nhận, cho nên các bài báo ở đây được tính trong hệ thống của PubMed. Ngược lại, ở nước ta, con số các tập san được quốc tế công nhận chỉ “đếm đầu ngón tay”, và hệ quả là con số bài báo công bố trên các tập san Việt Nam không hề được công nhận. Ở đây, chúng tôi chưa nói đến vấn đề chất lượng, nhưng chỉ bàn đến vấn đề chấn chỉnh các tập san sao cho phù hợp với qui trình làm việc của các tập san quốc tế.
Trong thời gian gần đây, kinh tế nước ta đã và đang phát triển nhanh chóng, nhưng hoạt động khoa học vẫn chưa theo kịp tốc độ phát triển kinh tế. Thật ra, hoạt động khoa học Việt Nam cần một cuộc cải cách lớn. Nếu không, chúng ta sẽ tiếp tục tụt hậu và thua kém các nước trong vùng. Xin nhắc lại: nếu tốc độ hiện hành, chúng ta đã đi sau Thái Lan đến hơn nửa thế kỉ. Với Singapore, chúng tôi không dám so sánh trực tiếp vì e rằng sẽ mất ý nghĩa của thống kê. Trong khi chúng ta đang loay hoay bàn về những vấn đề to tát (như triết lí giáo dục) và đặt ra những chuẩn mực cứng nhắc và có phần không phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, thì các nước trong vùng đang phát triển nhanh. Đã đến lúc chúng ta cần phải mạnh dạn nhìn thật kĩ những thiếu sót, những bất cập, những hủ tục và “văn hóa khoa học” đang tồn tại trong hoạt động khoa học để xóa bỏ chúng trước khi đi tiến đến một cuộc cải cách lớn. Do đó, để nâng cao vị thế khoa học Việt Nam trên trường quốc tế, thiết nghĩ Nhà nước ngoài việc nâng cao hiệu suất đầu tư cho khoa học và công nghệ và cải cách hệ thống hoạt động nghiên cứu khoa học, cần phải bắt đầu phát triển các chuẩn mực cho các nhà khoa học, kể cả tiêu chuẩn giáo sư, sao cho phù phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và không quá xa rời thực tế ở nước ta.
Xin nhắc lại một phát biểu trước đây như là lời kết của bài viết ngắn này : Cần phải khẳng định một thực tế rằng, Việt Nam không thể cạnh tranh với các cường quốc khoa học như Mỹ, Nhật hay một cường quốc khoa học đang trên đường hình thành như Trung Quốc, nhưng điều mà chúng ta có thể làm được là đảm bảo chất lượng nghiên cứu khoa học ở những lĩnh vực thuộc vào thế mạnh để nâng cao vị thế khoa học Việt Nam trên trường quốc tế. Thiết nghĩ Nhà nước ngoài việc nâng cao hiệu suất đầu tư cho khoa học và công nghệ và cải cách hệ thống hoạt động nghiên cứu khoa học, cần phải bắt đầu phát triển các chuẩn mực cho các nhà khoa học, kể cả tiêu chuẩn giáo sư, sao cho phù phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và không quá xa rời thực tế ở nước ta.
Chú thích:
[1] Tôi sử dụng cơ sở dữ liệu (database) của công ty Thomson Scientific In
[2]
[3] Xem bài “Nhìn lại 10 năm công bố ấn phẩm khoa học Việt
[4] Phelan TJ. A compendium of issues
[5] Xem bài viết về chỉ số H trên Tia Sáng của tôi: “Đánh giá ảnh hưởng trong nghiên cứu khoa học qua chỉ số H” (Tia Sáng 3/6/2008). Chỉ số h do một nhà vật lí học đề nghị, và tài liệu tham khảo là: Hirsch, Jorge E., (2005), “An index to quantify an individual’s scientific research output,” Proc Natl Acad Sci USA 2005;102(46):16569-16572. Bài báo này có thể download hoàn toàn miễn phí từ địa chỉ sau đây: http://www.pnas.org/cgi/content/abstract/102/46/16569.
[6] Chỉ số trích dẫn tương đối (relative citation index – RCI) phản ảnh mức độ ảnh hưởng trung bình của một nước. Gọi n_i là số bài báo xuất phát từ nước i, và c_i là số lần trích dẫn (citations) từ những bài báo đó. Gọi N là tổng số bài báo của tất cả các nước trên thế giới, C là tổng số trích dẫn của tất cả các bài báo trên thế giới. Chúng ta có thể ước tính tỉ số bài báo cho từng nước p_i (so với tổng số trên thế giới): p_i = n_i / N, và tỉ số lần trích dẫn cho từng nước q_i như sau: q_i / c_i / C. Chỉ số trích dẫn tương đối (relative citation index hay RCI) được ước tính như sau: RCI_i = p_i / q_i. Như có thể thấy qua công thức này, chỉ số RCI_i = 1 có nghĩa là chất lượng và ảnh hưởng của nghiên cứu khoa học của nước đó tương đương với chất lượng trung bình trên thế giới ; nếu RCI_i > 1 hay RCI_i < 1 có nghĩa là chất lượng và ảnh hưởng của nghiên cứu khoa học nước đo cao hơn hay thấp hơn trung bình thế giới. Một nước có thể công bố nhiều bài báo khoa học (như Trung Quốc chẳng hạn), nhưng ít ai trích dẫn hay quan tâm, và do đó chỉ số RCI rất thấp (0,27).
[7] May RM. The scientific wealth of nations. Science 1997; 275:793-796.
[8] Xem bài “Làm khoa học kiểu nhảy dù” của Nguyễn Văn Tuấn, Tia Sáng, số tháng 6 năm 2007.
[9] Xem bài “Nghiên cứu y học ở Việt
[10] Trong ngành y khoa, để xét đề bạt giáo sư trong các đại học Tây phương, ngoài các tiêu chuẩn về giảng dạy, tài trợ nghiên cứu và phục vụ xã hội, một tiêu chuẩn quan trọng số 1 là số lượng và chất lượng bài báo khoa học của ứng viên. Theo một qui định gần như “bất thành văn”, muốn được đề bạt lên “assistant professor” (giáo sư dự khuyết) ứng viên phải có từ 3-5 bài báo khoa học; một associate professor (phó giáo sư) phải có từ 15 bài báo khoa học trở lên (trong số này 5 bài phải là tác giả đầu); và một professor (giáo sư) phải có từ 50 bài báo trở lên (và trong số này phải là tác giả đầu của 20 bài). Đây chỉ là những tiêu chuẩn rất chung chung và có thể nói là tối thiểu. Cố nhiên, các tiêu chuẩn này còn tùy thuộc vào trường đại học và chuyên môn, cho nên không ai có thể đưa ra một qui định chính xác được.
[11] Xem bài “Nhân và Quả” của giáo sư Phạm Lợi Vũ, Tia Sáng : www.tiasang.com.vn/news?id=2076.
[12] Chẳng hạn như Đại học Lund (Thụy Điển), Khoa kinh tế, viết rõ luận án tiến sĩ thường được soạn thảo như là một tập hợp các bài báo riêng lẻ cùng với phần dẫn nhập. Các bài báo này hoặc đã được công bố trên một tập san quốc tế có bình duyệt, hoặc ở một dạng có thể công bố được. Đại học Công nghệ Queensland (QUT) viết : Yêu cầu cơ bản cho một luận án tiến sĩ là nghiên cứu sinh phải có tối thiểu 3 bài báo khoa học, trong số này, tối thiểu 1 bài d0ã được công bố hay chấp nhận cho công bố hay đang biên tập trước khi công bố. Đại học y khoa Albert Einstein (Albert Einstein College of Medicine) còn qui định cụ thể hơn : nghiên cứu sinh phải công bố ít nhất một bài báo khoa học đứng tên tác giả đầu, hoặc nếu chưa có, thì phải có kèm theo bản thảo của bài báo trong luận án và phải ghi rõ bài báo đang ở trong tình trạng nào (đã nộp cho tập san nào, hay còn trong vòng biên tập). Đại học Penn State, Bộ môn sinh hóa và sinh học phân tử, có qui định rằng nghiên cứu sinh cần có ít nhất là một bài báo khoa học đã được chấp nhận cho công bố trên một tập san khoa học quốc tế có bình duyệt trước khi bảo vệ luận án.
Taiwan International Graduate Program (Đài Loan), Đại học Khoa học và Công nghệ (Pakistan), Đại học Chicago (Bộ môn vật lí), Đại học Vanderbilt (Bộ môn sinh vật lí), Đại học Oklahama (Bộ môn khoa học máy tính), Đại học Washington (Bộ môn vi sinh học), v.v… (không thể kể hết ra đây) cũng có một qui định tương tự.