Quyền lực phải song hành hài hòa với tri thức

Khái niệm “nền kinh tế tri thức” được nhắc đến nhiều trong các năm qua dưới những cách diễn đạt khác nhau, nhưng quan điểm thông thường cho rằng nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó “sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức” trở thành yếu tố quyết định nhất giúp phát triển kinh tế và không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống.  

Nền kinh tế tri thức1, theo Ngân hàng thế giới “là nền kinh tế sử dụng hiệu quả tri thức cho sự phát triển kinh tế và xã hội, bao gồm việc thu nhận và khai thác nguồn tri thức toàn cầu cũng như thích ứng và sáng tạo tri thức để dùng cho các nhu cầu riêng”; còn theo Tổ chức OECD, nền kinh tế tri thức “Là nền kinh tế dựa trực tiếp vào việc tạo ra, phân phối và sử dụng tri thức và thông tin.” (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, OECD).
  

Các cách hiểu trên có thể dẫn đến một kết luận rằng muốn xây dựng một nền kinh tế tri thức thì cần phải có nhiều tri thức, nhiều người sáng tạo, sở hữu và truyền bá tri thức, hoặc đơn giản phải có nhiều người lao động trí óc, trong đó có nhiều nhà trí thức2.

Tích và tản tri thức

Chắc chắn rằng không phải chờ đến khi hình thành nền kinh tế tri thức thì các nhà trí thức mới có vai trò phục vụ cho sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Ngay trong lịch sử nước ta, từ xa xưa đã có những nhà trí thức đóng vai trò vô cùng quan trọng trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Đơn cử ngay như Nguyễn Trãi, một vị anh hùng dân tộc, cũng đồng thời là một nhà trí thức sáng ngời nhân cách. Ông sinh trưởng trong một gia đình khoa bảng. Ông cùng cha thi đỗ tiến sỹ năm đầu triều Hồ. Khi giặc  Minh xâm chiếm nước ta, thành Thăng Long thất thủ, Nguyễn Trãi lưu lạc trong dân gian 10 năm trước khi vào Lam Sơn tham nhập cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi. Ông được Lê Lợi tin dùng, bày mưu tính kế trong tổng hành dinh đầu não của cuộc khởi nghĩa. Chiến lược của ông là không đánh thành mà đánh vào lòng người, lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, thu phục được sự đoàn kết nhất trí của nhân dân, lung lay ý chí của kẻ thù, đem lại cho Lê Lợi hiệu quả sánh ngang trăm vạn hùng binh.

Một nhà trí thức nổi tiếng khác là Đào Duy Từ, lúc nhỏ cực kỳ thông minh, học đâu nhớ đấy, vô cùng sáng dạ. Nhưng lớn lên ông không được đi thi vì vấn đề lý lịch3. Do đó, ông bỏ chúa Trịnh ở Đàng Ngoài để theo chúa Nguyễn, trở thành người bày mưu tính kế ở cơ quan quyền lực cao nhất ở Đàng Trong. Ông được chúa Nguyễn coi là Thầy. Chiến lũy ở Quảng Bình do ông chỉ huy xây đắp được gọi là lũy Thầy. Nhờ kế sách của ông mà vương quyền họ Nguyễn đứng vững trước những cuộc công phá liên tục của chúa Trịnh, không những thế còn vươn xa về phương Nam, làm cho nước Việt có diện mạo hình chữ S như hiện nay.

Như vậy, cuộc đời của hai nhà trí thức Nguyễn Trãi và Đào Duy Từ, dưới góc nhìn trí thức, đều có những nét tương đồng. Đó là họ đều tích luỹ đến mức cao nhất và rộng nhất những tri thức đương thời, cả trong sách vở, cả trong cuộc sống thực tiễn. Khi tích đã đủ họ đều tản những tri thức ấy dưới dạng các tư tưởng và chiến lược từ các trung tâm quyền lực cao nhất.

 Xem xét hai ví dụ trên chúng ta thấy người trí thức chỉ thành hình khi có đủ hai quá trình:

Quá trình thứ nhất – Quá trình tích: Một nhà trí thức cần phải tích luỹ tri thức liên tục, tích lũy trong mọi hoàn cảnh, trước hết phải tích lũy thật sâu tri thức thuộc một lĩnh vực chuyên biệt nào đó. Khi đã đạt đến một mức nào đó, nhà trí thức tương lai có thể thi lấy một tấm bằng (tiến sỹ chẳng hạn), hoặc chẳng cần mảnh bằng nào hết. Sau khi đã tích khá khá, anh ta dần dần phải tìm hiểu được các quy luật phổ biến và vĩnh hằng đang chi phối cuộc sống nhân loại tại thời điểm anh ta đang sống. Nhờ việc hiểu rõ một số quy luật, anh ta bắt đầu có thể mở rộng sự hiểu biết của mình sang các lĩnh vực khác ngoài chuyên môn. Quá trình đào sâu và mở rộng tri thức cũng vẫn là quá trình tích lũy, những ở trình độ cao hơn, nhiều sáng tạo hơn. Quá trình này đối với một nhà trí thức là không có điểm kết. Anh ta không được phép dừng lại sau khi đã đạt đến một học vị, một bằng cấp nào đó. Nếu dừng lại anh ta sẽ được gọi là một vị “cựu trí thức”. Nhưng khác với với các “cựu quan chức”, các “cựu trí thức” có thể quay lại “sở nhiệm” của mình bất cứ lúc nào, chỉ cần anh ta khởi động lại quá trình tích luỹ.

Trong một cộng đồng cụ thể, khi có sự kết hợp hài hoà giữa hai trung tâm quyền lực và trí tuệ thì sẽ tạo nên một sức mạnh cực kỳ to lớn thúc đẩy sự phát triển của cả cộng đồng.

Quá trình thứ hai – quá trình tản: Một trí thức phải tản kiến thức của mình đã tích luỹ theo nghĩa đóng góp nhiều hơn và tốt hơn cho cuộc sống hiện tại. Nhiệm vụ của anh ta không đơn thuần là nâng cao chất lượng cuộc sống của cá nhân, gia đình và dòng họ, mà hơn hết, thước đo nhân cách của nhà trí thức là anh ta có nghĩa vụ mang lại hạnh phúc cho một cộng đồng xã hội to lớn hơn cái nhóm nhỏ được tạo nên từ gia đình, bạn bè, cạ cụm,… xung quanh anh ta. Ví dụ, các nhà phát minh sáng chế, họ đã tản kiến thức thu được dưới dạng các sản phẩm hữu ích (vật thể hoặc phi vật thể) để tạo ra năng suất lao động cao hơn, biến lao động trở thành niềm vui sáng tạo, chứ không phải là các công việc khổ sai.

Tuy nhiên, quá trình tản của trí thức có nhiều cấp độ. Cấp độ một là ở bục giảng, trên sàn diễn hay trong các phòng thí nghiệm. Ở cấp độ này, nhà trí thức làm việc gần giống các nhà chuyên môn. Cấp độ hai là nhà trí thức đã thức nhận được các luật vĩnh hằng và phổ quát. Họ có thể viết sách để truyền bá các tư tưởng ấy. Sách của họ có thể là các tác phẩm bằng chữ, bằng hình ảnh, bằng âm thanh, v.v. Cấp độ ba là nhà trí thức hoá thân thành trung tâm trí tuệ để tích thu tri thức cộng đồng. Nhà trí thức lúc đó không còn là một cái tôi bé nhỏ. Họ trở thành các trung tâm trí tuệ không ngừng mở rộng, không ngừng thu nạp thêm tri thức mới, không ngừng toả sáng truyền bá hiểu biết đến những góc khuất của cuộc sống.

Khi trí thức song hành hài hòa cùng quyền lực

Có thể tạm hình dung sự kết hợp giữa quyền lực và trí thức theo nguyên lý âm-dương. Trung tâm trí tuệ mang đặc tính âm, luôn có tiềm năng kết hợp một cách hài hoà với trung tâm quyền lực mang đặc tính dương. Trong một cộng đồng cụ thể, khi có sự kết hợp hài hoà giữa hai trung tâm quyền lực và trí tuệ thì sẽ tạo nên một sức mạnh cực kỳ to lớn thúc đẩy sự phát triển của cả cộng đồng.

Cái may của Nguyễn Trãi, cũng là phúc lớn của dân tộc Việt nam là tài năng của Ông đã lọt vào mắt xanh của Lê Lợi. Sự kết hợp ấy được thể hiện trong câu “Nguyễn Trãi vi thần, Lê Lợi vi quân”. Sự kết hợp hài hòa giữa hai trung tâm, Lê Lợi- trung tâm quyền lực, Nguyễn Trãi – trung tâm trí tuệ, đã tạo nên sức mạnh to lớn, đưa đến chiến thắng vang dội quét sạch giặc Minh khỏi bờ cõi, làm cho nước Việt không phải làm quận huyện của nước Tầu một lần ngàn năm nữa.

Ở tầm mức cao nhất, trí thức là phần âm, giúp bổ khuyết những phần còn thiếu của quyền lực để tạo ra sự hài hòa âm dương của sự phát triển. Vì vậy, quyền lực, với tư cách một vương quyền hay một thể chế, không nên coi trí thức là kẻ thù để đến nỗi phải nêu khẩu hiệu “đào tận gốc, trốc tận rễ”, mà ngược lại phải coi trí thức như là nỗi khao khát tìm kiếm suốt đời của mình. Thiếu sự hỗ trợ của tri thức, quyền lực có thể bị tha hóa, biến nhà chính trị thành kẻ quái dị đáng thương vây quanh bởi những kẻ xu nịnh rẻ tiền. Không chỉ ở quy mô quốc gia, ở những quy mô hẹp hơn, đối với bất cứ cá nhân, tổ chức nào mà sự kết hợp giữa trí tuệ và quyền lực không hài hoà thì đều tất yếu dẫn đến sự tan rã, suy kiệt và sụp đổ.

Tri thức thúc đẩy tiến bộ như thế nào?

Nhìn lại quá trình chuyển đổi phương thức sản xuất lần thứ nhất của nhân loại, chúng ta thấy rằng đây là thời điểm loài người chuyển từ kinh tế săn bắn hái lượm sang kinh tế nuôi trồng. Lúc đó, loài người đã tích lũy được một khối lượng tri thức rất lớn về vật nuôi, cây trồng, về giống cây, giống con, về thời tiết, phân tro, về sâu bệnh, dinh dưỡng, về chế biến, bảo quản,… Rõ ràng rằng lúc đó các bộ lạc còn sống bấp bênh nhờ hái lượm đã từng thèm khát và khâm phục gọi các bộ lạc có nền kinh tế nuôi trồng là các nền kinh tế uyên bác. Thực vậy họ gọi những người nuôi trồng là những kẻ “cultiver” (những người có văn hoá). Sự khâm phục ấy đã biến đổi động từ “trồng trọt” thành danh từ “văn hóa”. Tại thời điểm đó, khối lượng tri thức của nhân loại đã tăng lên một cách đột biến. Quá trình chuyển đổi phương thức sản xuất lần thứ nhất này dẫn đến sự hình thành nhiều trung tâm văn minh nhân loại từ Ai Cập, Lưỡng Hà, đến Ấn Độ, Trung Hoa, v.v.

Lịch sử lại thêm một lần chuyển đổi phương thức sản xuất lần thứ hai, mới chỉ xảy ra cách đây vài trăm năm, là quá trình thay thế sức sản xuất từ cơ bắp sang sức máy. Lúc đó, công suất của những cỗ máy hơi nước, của các động cơ điện thường hay được so sánh với sức ngựa kéo (HP hay CV). Cách so sánh này vẫn được ghi trên nhãn mác của những cỗ máy hiện đại nhất tại thế kỷ 21 này. Tại lần chuyển đổi thứ hai này, tri thức của loài người về các quá trình lý hoá, cơ điện, nhiệt động, kết cấu, lắp ghép, v.v, cũng tăng lên đột biến. Quá trình chuyển đổi phương thức sản xuất lần thứ hai gắn liền với sự lớn mạnh của chủ nghĩa tư bản, sự bành trướng toàn cầu của chủ nghĩa thực dân.

Hiện nay, chúng ta bắt đầu đi vào quá trình chuyển đổi phương thức sản xuất lần thứ ba, có bản chất là sự tối ưu hóa sản suất bằng các con chíp điện tử. Trong công cuộc chuyển đổi này, mọi hoạt động sản xuất, văn hóa, thể thao, khoa học, công nghệ, văn học, nghệ thuật, v.v, đều thấp thoáng bóng dáng sự hỗ trợ của các con chíp điện tử. Tốc độ chuyển đổi phương thức sản xuất lần thứ ba rất nhanh, phạm vi rất rộng, không trừ một góc khuất nào trên khắp hoàn cầu.

Nhiều hiện tượng mới, cả tích cực và tiêu cực đều đồng thời diễn ra. Hơn nữa, nhận thức của chúng ta về quá trình chuyển đổi mày có lẽ đã, đang và sẽ còn rất nhiều khiếm khuyết. Bởi vì, đơn giản là chúng ta đang sống trong chính quá trình chuyển đổi đó. Đứng bên cạnh con voi đã rất khó khăn để mô tả về Con voi, thế thì đứng trong bụng con voi lại càng khó nói về nó hơn. Cái gọi là “nền kinh tế tri thức”, thực chất chính là một cuộc chuyển đổi lớn lao, mạnh mẽ và vô cùng dồn dập về phương thức sản xuất, trong đó hiểu biết của loài người về mọi phương diện đang tăng lên theo cấp số nhân giống như hai lần chuyển đổi trước đây.

Nguy cơ tụt hậu

Nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy rằng trong lần chuyển đổi phương thức sản xuất thứ nhất, những bộ lạc khư khư giữ phương thức hái lượm nhanh chóng bị thôn tính và xoá sổ, mất đất, mất tên. Tương tự như vậy, tới lần chuyển đổi thứ hai, nhiều quốc gia chậm tiến đã bị các nước phát triển hơn thôn tính làm thuộc địa. Nhật Bản là một trong những dân tộc hiếm hoi, do đã nhanh chóng tăng cường tri thức về máy móc, nên mới thoát hiểm không bị nhấn chìm bởi làn sóng thuộc địa hoá.

Nếu như người lãnh đạo các nước này nhận thức sai về nền kinh tế trí thức, nếu họ chỉ ưa các mỹ từ, không nhìn sâu vào quá trình chuyển đổi, không biết ứng dụng nguyên lý lớn (nguyên lý tích tản) để mổ xẻ các vấn đề thời cuộc, nhất định họ đã và sẽ còn chìm lâu trong sự trì trệ.

Điều này dẫn đến một suy đoán là, trong lần chuyển đổi phương thức sản xuất thứ ba này vốn đang diễn ra với tốc độ vô cùng khẩn trương, các dân tộc và quốc gia không nỗ lực thay đổi, thích nghi, thì tất yếu bị tụt hậu xa hơn. Nếu như người lãnh đạo các nước này nhận thức sai về nền kinh tế trí thức, nếu họ chỉ ưa các mỹ từ, không nhìn sâu vào quá trình chuyển đổi, không biết ứng dụng nguyên lý lớn (nguyên lý tích tản) để mổ xẻ các vấn đề thời cuộc, nhất định họ đã và sẽ còn chìm lâu trong sự trì trệ.

Vậy vấn đề thời cuộc lớn nhất hiện nay là gì? Đó chính là vấn đề nhận thức cho đúng hạt nhân phát triển, bao gồm quyền lực (Power – P) và trí tuệ (Intellectual – I), hay có thể gọi là hạt nhân (P,I). Nhận thức về hạt nhân (P,I) cho phép chúng ta từ bỏ cách xài cụm từ “sử dụng chất xám”. Chất xám với tư cách là một con người không thể bị sử dụng thông qua một hợp đồng lao động với đồng lương rẻ mạt. Quan niệm như vậy sẽ giết chết sự sáng tạo. Chất xám, hay nhà trí thức, phải được trân trọng ở tầm mức cao nhất. Bất cứ một tổ chức hay cá nhân nào tạo ra được một hạt nhân (P,I) đều có thể xác lập một cơ hội phát triển mạnh mẽ. Hạt nhân (P,I) luôn luôn có trách nhiệm, và về nguyên lý nhất định phải lãnh trách nhiệm, trong việc tìm ra cách thức mới để sáng tạo ra sản phẩm phục vụ cuộc sống theo cách tốt đẹp hơn, nhân văn hơn. Cũng là sản phẩm lúa gạo, nhưng trong nền kinh tế tri thức một tổ chức có hạt nhân (P,I) sẽ sản xuất ra lúa gạo với năng suất cao hơn, hiệu quả hơn, hủy hoại môi trường ít hơn. Ngược lại, một tổ chức độc quyền không có hạt nhân (P,I), sẽ sản xuất xăng dầu, xi măng, điện năng, gỗ giấy, v.v, với chi phí ngày càng tăng, làm cạn kiệt tài nguyên, và hủy hoại môi trường ngày càng nhiều.

Cuối cùng, chúng tôi đề xuất một định nghĩa: “Nền kinh tế tri thức” là nền kinh tế sản xuất ra những sản phẩm phục vụ cho cuộc sống con người bằng các qui trình ngày càng trí tuệ hơn, nhờ vào việc nền kinh tế ấy đang xây dựng và mở rộng ngày càng nhiều các hạt nhân phát triển (P,I). Ngược lại, những quốc gia hoặc khu vực nào chưa có ý thức tạo dựng các hạt nhân phát triển (P,I) thì nhất quyết chưa thể xếp vào hạng các nền kinh tế tri thức.

1. Tri thức: Những hiểu biết mà người ta phải học mới có, học cả trong sách vở lẫn trong thực tế. Tri thức giúp một con người hoặc một cộng đồng hành động đúng trong một bối cảnh nào đó. Khi bối cảnh thay đổi tri thức ấy cũng thay đổi theo. Vậy tri thức la các luật nhỏ (local laws).

2. Trí thức là người thức nhận được các luật lớn (permanent and universal laws) bằng một trong hai cách:

– Cách tuần tự: học tập dần dần để tích lũy các luật nhỏ

– Cách đốn ngộ: suy ngẫm để đi đến việc xé bỏ màng vô minh

Nói chung trí thức là người thức tỉnh khỏi vô minh nhờ rèn luyện tâm trí. Rất nhiều người có bằng cấp cao nhưng chưa thức tỉnh thì chưa là trí thức. Họ đang trên đường đi đến. Nhưng có thể vì tâm hẹp hòi, u xám, mà họ ngày càng rời xa quá trình thức tỉnh.

3. Cha mẹ Đào Duy Từ làm nghề ca xướng, thành ra theo quy định của chế độ cũ ông không được đi thi.

Tác giả

(Visited 2 times, 1 visits today)