Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam

Tòa án New York đã bắt đầu nghe vụ kiện do Hội nạn nhân chất độc da cam Việt Nam đệ đơn kiện 32 công ti hóa học từng sản xuất và cung cấp hóa chất, kể cả chất độc màu da cam, sử dụng trong thời chiến kéo dài suốt 10 năm (từ 1961-1971). Phiên tòa thu hút sự chú ý của thế giới và ngay cả quốc hội Mĩ, vì thời điểm của phiên tòa diễn ra trùng hợp với chuyến thăm chính thức nước Mĩ của chủ tịch Nguyễn Minh Triết. Ngoài dư luận ủng hộ phía nguyên đơn (tức Hội nạn nhân chất độc da cam Việt Nam), giới cựu chiến binh Hàn Quốc, New Zealand, và Úc cũng theo dõi xem phán quyết của tòa án vì họ cũng có dự định kiện các công ti hóa chất Mĩ do những phơi nhiễm mà họ chịu phải trong thời chiến.


Khó có thể đoán trước kết quả phiên tòa ra sao, nhưng kinh nghiệm trong quá khứ cho thấy vấn đề chất độc da cam chưa bao giờ được thảo luận đến nơi đến chốn ở pháp đình.  Hơn hai năm trước, tháng 3 năm 2005, vụ kiện chất độc da cam không được xét xử vì theo Thẩm phán Jack Weinstein, “Các yêu sách của phía nguyên đơn không có cơ sở pháp lí dưới bất cứ luật nội địa, hay luật quốc gia, hay luật tiểu bang, hay luật quốc tế.  Vụ kiện không được xét xử.”  Hơn 20 năm về trước khi các cựu chiến binh Mĩ kiện các công ti hóa chất Mĩ về những tác hại sức khỏe mà họ chịu phải khi tham gia vào chiến dịch phun độc chất, và vụ kiện được kết thúc bằng một thỏa thuận ngoài tòa mà theo đó các công ti hóa chất đồng ý lập ra một quĩ y tế xã hội nhằm trợ cấp cho các cựu chiến binh Mĩ từng bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam. 

Nhưng bất kể kết quả phiên tòa ra sao, một thực tế không thể chối cãi được là qua nhiều nghiên cứu trong ba thập niên qua, dioxin và chất độc da cam gây ra nhiều tác hại đến sức khỏe con người.  Viện y khoa Mĩ (Institute of Medicine) thuộc Viện hàn lâm khoa học Mĩ duyệt qua các nghiên cứu trong quá khứ và đi đến kết luận rằng chất độc da cam hay dioxin là nguyên nhân gây ra  một số bệnh như ung thư tế bào mềm, ung thư máu dạng Non-Hodgkin và Hodgkin, ung thư tuyến tiền liệt, ban clor, chứng nứt đốt sống, v.v… 

Trong vòng 2 năm qua cũng có một số nghiên cứu cho thấy chất độc da cam có thể kéo dài hàng năm thập niên.  Chẳng hạn như một nghiên cứu mới nhất (công bố năm ngoái) cho thấy các cựu chiến binh Mĩ từng trực tiếp phun chất độc màu da cam có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường, bệnh tim, cao huyết áp, và các bệnh mãn tính đường hô hấp cao hơn những cựu chiến binh khác khoảng 50% đến 100%.  Trong một bài báo khoa học gần đây công bố trên tập san dịch tễ học International Journal of Epidemiology, nghiên cứu sinh bác sĩ Ngô Đức Anh (Hà Nội) và tôi phân tích dữ liệu từ 21 công trình nghiên cứu từ Mĩ, Úc và Việt Nam liên quan đến ảnh hưởng của chất độc da cam và dị tật bẩm sinh.  Chúng tôi phát hiện rằng những bà mẹ hay cha bị phơi nhiễm độc chất da cam trong thời chiến có nguy cơ sinh con với dị tật bẩm sinh tăng gấp 2-3 lần so với những người không bị phơi nhiễm. 
 
Nói tóm lại, tác hại của chất độc da cam đến con người là một thực tế hiển nhiên.  Không chỉ ở Mĩ mà còn ở Việt Nam.  Chỉ cần đến những vùng bị phun độc chất nhiều trong thời chiến sẽ thấy tần số trẻ em với dị tật bẩm sinh, ung thư, và các bệnh ngặc nghèo khác sẽ thấy ngay hệ quả của việc sử dụng chất màu da cam một cách bừa bãi.  Thật ra, có bằng chứng cho thấy giới khoa học quân sự Mĩ biết trước tác hại của chất độc da cam.  Tiến sĩ James R. Clary, thuộc cơ quan nghiên cứu vũ khí hóa học (Chemical Weapons Branch) trực thuộc Airforce Armament Development Laboratory (Florida), viết như sau: “Lúc chúng tôi (các nhà khoa học quân đội) khởi xướng chương trình khai quang vào thập niên 1960, chúng tôi biết tiềm năng độc hại của chất dioxin chứa trong thuốc diệt cỏ.  Chúng tôi còn biết rằng công thức mà giới quân sự dùng có nồng độ cao hơn nồng độ mà giới dân sự dùng, vì chi phí rẻ và thời gian sản xuất ngắn.  Tuy nhiên, vì hóa chất sẽ được dùng trên kẻ thù, không ai trong chúng tôi quan tâm thái quá.  Chúng tôi không bao giờ nghĩ là quân đội chúng ta lại bị nhiễm độc chất.  Và, nếu chúng tôi nghĩ đến tình huống này, chúng tôi mong muốn chính phủ chúng ta giúp đỡ các cựu chiến binh bị nhiễm độc chất.” 

Vấn đề chất độc da cam ở VN có thể giải quyết một cách thỏa đáng nếu các công ti hóa học và chính phủ Mĩ có thiện chí.  Thật ra, Quốc hội Mĩ đã có thiện chí giải quyết vấn đề qua vài tuyên bố gần đây của các quan chức Mĩ, nhưng các công ti hóa học vẫn chưa chịu nhận lãnh trách nhiệm.  Những việc làm có ý nghĩa mà các công ti liên quan đến vấn đề chất độc da cam có thể thực hiện được là giúp đỡ cho những nạn nhân bị nhiễm độc chất và bị những bệnh được công nhận là do độc chất da cam hay dioxin gây ra. Năm 1984, các công ti hóa học [có liên quan đến việc sản xuất và cung cấp độc chất da cam cho quân đội Mĩ] đồng ý bồi thường cho các cựu quân nhân Mĩ một số tiền khoảng 180 triệu Mĩ kim.  Ở Việt Nam, hình thức bồi thường có thể bao gồm việc điều trị những bệnh được công nhận là do phơi nhiễm độc chất gây ra, tạo công ăn việc làm cho những cư dân trong các vùng bị nhiễm, lập bệnh xá và trường học để nâng cao đời sống vật chất và trình độ văn hóa cho nạn nhân và cư dân tại những nơi bị nhiễm độc chất.

Một cách giúp đỡ khác là các công ti lập một ngân quĩ để làm sạch môi trường tại những nơi bị nhiễm nặng như Biên Hòa, A Lưới, A Sao, v.v… Năm 1976, ở Ý sau vụ tai nạn kĩ nghệ xảy ra tại nhà máy gần thị trấn Seveso làm thải ra môi trường chung quanh khoảng 30 kg dioxin.  Ấy thế mà cho đến nay, tức gần 30 năm sau tai nạn đó và sau 30 năm làm sạch môi trường, các nhà nghiên cứu Ý vẫn phát hiện tác hại của dioxin trong sức khỏe người dân.  Ở Việt Nam hiện nay, kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy tại các địa điểm này, nồng độ dioxin rất cao, có khi cao hơn 130 lần nồng độ an toàn cho phép, vì chất độc đã lắng đọng xuống lòng đất, nhất là các nơi bùn lầy.  Do đó, nhu cầu làm sạch môi trường tại những nơi này phải được xem là một ưu tiên hàng đầu.

Cái nghịch lí cơ bản của chiến tranh là trong khi nạn nhân thì quằn quại với khổ đau, thì một bộ phận phục vụ cho chiến tranh lại ăn nên làm ra.  Đối với người lính ngoài chiến trường, hay người dân bị kẹt trong giữa hai lằn đạn, chiến tranh đồng nghĩa với sự chết chóc, thương vong.  Nhưng đối với các công ti sản xuất và buôn bán vũ khí, kể cả hóa chất dùng cho hủy diệt môi sinh núp dưới danh nghĩa “khai quang”, “ái quốc”, chiến tranh là một thương trường lí tưởng, một cơ hội thương mại để mở rộng hoạt động sản xuất và thị trường vũ khí. 

Năm 1864, khi Abraham Lincoln đắc cử tổng thống, Karl Marx đại diện cho Hiệp hội Công nhân Quốc tế (International Workingmen’s Association) gửi lời chúc mừng.  Lúc đó, Charles Francis Adams, một bộ trưởng của Mĩ ở Luân Đôn thay mặt Lincoln trả lời Marx: “Chính phủ Mĩ ý thức sâu sắc rằng chính sách của Mĩ, hiện nay cũng như trong quá khứ […] là phấn đấu cho sự bình đẳng và công lí đúng đắn cho tất cả các nhà nước, tất cả con người  […] Quốc gia không phải tồn tại một cách riêng lẻ và chỉ cho riêng quốc gia đó; quốc gia tồn tại để cổ vũ cho sự thịnh vượng và hạnh phúc của nhân loại bằng những hợp tác nhân đạo.”  Vì vậy không có lí do gì ngăn cản Mĩ nhận lãnh trách nhiệm về sai lầm và những hệ quả nghiêm trọng của chất độc da cam ở Việt Nam bằng những hành động thực tế và thiết thực cho nạn nhân độc chất.

Chú thích ảnh: Đoàn các nạn nhân chất độc da cam trước giờ vào phiên tòa. Ảnh: TTO

GS. Nguyễn Văn Tuấn

Tác giả