Trí thức và sự tiến bộ của xã hội

Khái niệm “trí thức” xuất phát từ vụ án Dreyfus nổi tiếng ở Pháp cách đây hơn một thế kỷ (1894-1906), trong đó sĩ quan Dreyfus bị kết án phản quốc bằng các chứng cứ giả.

Dreyfus được những người có tư tưởng tiến bộ, tiêu biểu như Emile Zola, Anatole France, George Clémenceau tập hợp thành lực lượng đông đảo đấu tranh đòi lại công lý cho ông ta, chống lại sự vùi dập, xuyên tạc sự thật, lừa dối công chúng của những kẻ nắm quyền hành. Cuối cùng, Dreyfus được trắng án và khôi phục danh dự sau 12 năm. Từ sau vụ án Dreyfus, đã không ít lần tương tự các nhà trí thức tập hợp lại với nhau để đưa ra các “tuyên ngôn của trí thức” về các vấn đề nóng bỏng của xã hội. Các tuyên ngôn đó nói chung có tính chất tiến bộ và khai sáng. Một ví dụ gần đây là “Tuyên ngôn của các trí thức Tunisia” vào năm 2012, chống lại các xu hướng nguy hiểm có nguy cơ xảy ra ở Tunisia như là chủ nghĩa dân tộc cực đoan và tôn giáo hoá chính quyền.

Có những người dùng từ “trí thức” theo nghĩa hạn hẹp, khắt khe, coi rằng người trí thức phải là nhà tư tưởng lớn tiên phong với những tác phẩm triết lý lớn để đời. Khi giáo sư sử học James Kloppenberg ở Harvard gọi Barack Obama là “nhà trí thức thực sự, Tổng thống triết gia” thì bị một học giả nổi tiếng khác là giáo sư quan hệ quốc tế Barry Rubin ở Israel phản đối dữ dội. Lý do mà Rubin đưa ra là Obama không thật uyên thâm về lịch sử, triết học hay luật pháp, không viết được công trình lý thuyết lớn nào như là những bậc tiền bối John Adams, Thomas Jefferson và James Davidson. Nếu hiểu kiểu khắt khe như vậy thì số lượng người trí thức rất ít và không tạo thành một tầng lớp trong xã hội.

 

 

Sĩ quan Alfred Dreyfus (phải) bị kết án phản quốc bằng các chứng cứ giả. Ảnh phải: Cảnh nhà văn Emile Zola lên tiếng đấu tranh đòi công lý cho Alfred Dreyfus trong phiên tòa xử Dreyfus. Sự việc này đã được đưa vào bộ phim “Cuộc đời Emile Zola” (năm 1937).

Để tránh cãi nhau một cách vô ích xem “ai là trí thức”, chúng ta có thể coi khái niệm “trí thức” là một khái niệm tương đối, thay vì tuyệt đối, tương tự như “giàu” và “nghèo” là những khái niệm tương đối. Như vậy, một người có thể là trí thức trong mắt người này nhưng chưa đạt mức trí thức trong mắt người khác.

Chúng ta cũng có thể coi những người có mức độ trí thức cao thì tạo thành tầng lớp trí thức ưu tú trong xã hội. Theo nhà kinh tế Friedrich August von Hayek (1899-1992), tầng lớp trí thức không chỉ gồm những nhà tư tưởng tiên phong, mà còn là tầng lớp trung gian giữa các nhà tư tưởng tiên phong và đại chúng, với vai trò “dẫn dắt đại chúng”, truyền đạt lại các tri thức, giác ngộ từ những nhà tiên phong đến đại chúng.

Thế nào là có mức độ trí thức cao?

Nói theo kiểu tâm lý học, một người càng có trí tuệ cao, tình cảm cao (đồng cảm với nỗi khổ của nhân loại) và quyết tâm cao thì mức độ trí thức càng cao. Thiếu một trong ba vế đó thì mức độ trí thức bị giảm đi. Không có quyết tâm thì chỉ là “trí ngủ”, thiếu tình cảm thì có thể thành quỷ dữ như Hitler, còn thiếu trí tuệ thì là nhiệt tình cộng với ngu dốt dễ dẫn đến phá hoại.

Có nhiều khi từ “trí thức” bị dùng với nghĩa xấu. Ngay trong vụ án Dreyfus, ban đầu từ “trí thức” được phe chống Dreyfus dùng một cách mỉa mai để chỉ những người ủng hộ Dreyfus như là những kẻ “hám danh, rách việc, kém hiểu biết thực tế nhưng lại thích chõ miệng vào việc không phải của mình”. Bản thân giới “có học” và tự nhận mình là “trí thức” cũng mắc một số căn bệnh khiến từ “trí thức” bị mang nghĩa xấu. Những căn bệnh phổ biến nhất là: thừa lý thuyết thiếu thực hành, thừa học vấn thiếu trách nhiệm, tự cao tự đại. Ở Việt Nam từ thời phong kiến có câu thơ: “Ai ơi chớ lấy học trò, dài lưng tốn vải ăn no lại nằm”. Ngay ở Hà Lan ngày nay, từ “trí thức” hay bị hiểu là “học quá nhiều và có những quan điểm không thực tế về thế giới”. Ở Cộng hoà Séc, từ “trí thức” cũng được dùng để chỉ những người lắm triết lý viển vông xa vời thực tế. Tuy nhiên, người ta không thể phủ nhận rằng cố Tổng thống Vaclav Havel là một biểu tượng của nhà trí thức lớn đem lại thay đổi tốt đẹp cho xã hội Séc.

Có một số học giả coi rằng không có một tầng lớp trí thức chung của xã hội, mà mỗi giai cấp trong xã hội có đội ngũ trí thức riêng của giai cấp đó để phục vụ giai cấp đó. (Xem phân tích về các quan niệm về giới trí thức trong bài báo: Kurzman và Owens, The sociology of intellectuals, Annu. Rev. Sociol. 2002, No. 28: 63-90). Ví dụ như giai cấp vô sản có trí thức vô sản, giai cấp tư sản có trí thức tư sản, phe cánh tả có trí thức cánh tả, cánh hữu có trí thức cánh hữu. Tuy rằng việc phân loại này có thể còn đúng một phần nào đó, nhưng trong xã hội hiện đại ngày nay, sự khác biệt giữa một người “trí thức cao” và một người “kém trí thức” lớn hơn nhiều so với sự khác biệt giữa một người “trí thức cánh tả” và một người “trí thức cánh hữu”. Nếu là những người có “mức độ trí thức cao” thì dù theo “trường phái nào” cũng dễ gần nhau và dễ hợp tác với nhau vì lợi ích chung của xã hội.

Tất cả các hiểu biết của chúng ta về thế giới ngày nay (ví dụ như di truyền học hay vật lý lượng tử), tất cả các tư tưởng lớn (ví dụ như bình đẳng chủng tộc, giải phóng nô lệ, dân chủ và tự chủ ở các cấp) và các tiến bộ xã hội đều có công khám phá và truyền bá của các trí thức. Các nhà lãnh đạo lý tưởng của một đất nước và của toàn thế giới phải là những trí thức thực sự. Ngay từ thời phong kiến, người ta cũng đã nhận ra tầm quan trọng của tri thức trong lãnh đạo, qua việc tuyển quan bằng các kỳ thi. Đất nước nào, xã hội nào có tầng lớp trí thức càng mạnh và có chính quyền càng trí thức thì càng dễ phát triển, tiến bộ.

Làm sao để phát triển và phát huy vai trò của tầng lớp trí thức?

Ở đây, tôi chỉ xin nêu ra một số điểm khá hiển nhiên: 1) Nhận thức về sự kém cỏi của mình (hay là của giới trí thức của đất nước mình) để từ đó quyết tâm vươn lên; 2) Tăng đầu tư và tạo điều kiện cho sự phát triển của trí thức; 3) Cải thiện hệ thống giáo dục.

Nhận thức về sự kém cỏi của mình

Dễ thấy rằng, so với thế giới, trí thức Việt Nam của chúng ta còn yếu. Tuy trong lịch sử của dân tộc có một số trí thức lớn như là Nguyễn Trãi hay Nguyễn Du, nhưng nhìn tổng thể thì đóng góp của Việt Nam cho toàn thế giới trong lịch sử còn rất khiêm tốn so với các nước khác. Còn nhìn vào thực trạng hiện nay, có thể thấy đóng góp của giới trí thức nước ta lại càng hạn chế, có lẽ trước hết bởi sự học hành không đến nơi đến chốn, tưởng là biết tuy rằng chưa biết, thêm vào đó là cách làm việc cẩu thả. Điều đó thể hiện điển hình nhất qua những đóng góp về dịch thuật. Có một lượng lớn các tác phẩm hay bằng tiếng nước ngoài, khi được dịch sang tiếng Việt bị sai rất nhiều, thậm chí đến mức làm sai hoàn toàn ý của tác giả. Cách đây ít hôm, tôi được đọc bản dịch tiếng Việt in ra vào cuối năm 2015 của cuốn sách “Xứ Đông Dương” (L’Indo-chine) của Paul Doumer (từng là Toàn quyền Đông Dương trong 5 năm, rồi về sau trở thành Tổng thống Pháp) viết năm 1905. Có thể nói ông Doumer là một người uyên bác, xuất thân từ một gia đình “vô sản” nhưng được hưởng nền giáo dục khai sáng của Pháp, và quyển sách của ông về Đông Dương là một tài liệu lịch sử quý báu mà có lẽ nhà sử học hay văn hoá học về Việt Nam nào cũng đều cần biết. Chỉ tiếc rằng, bản dịch tiếng Việt năm 2015 của nó bị sai một cách thô thiển, hầu như trang nào cũng sai, và chứa nhiều câu đọc tiếng Việt đã thấy ngớ ngẩn vô nghĩa chưa cần đối chiếu với bản gốc tiếng Pháp. Ai mà đọc và hiểu theo bản dịch này thì sẽ bị hiểu sai hết ý của Doumer và hiểu sai lịch sử. Và sách của Doumer không phải là sách duy nhất bị rơi vào tình trạng như vậy. Rất nhiều sách triết học, mỹ học, văn học, v.v. có bản gốc tiếng nước ngoài đang tồn tại ở Việt Nam bị dịch sai, và như vậy người Việt Nam chúng ta đã bị hiểu sai rất nhiều thứ, khiến cho mức độ tri thức và trí thức bị giảm đi.

Đầu tư cho chất xám và trí thức

Sự đầu tư kém cỏi cho các công việc trí óc là một nguyên nhân quan trọng dẫn tới hạn chế chất lượng các sản phẩm tri thức, mà tình trạng sách dịch bị sai rất nhiều trên đây cũng là một ví dụ điển hình. So với thế giới, giá ô tô hay nhà cửa ở Việt Nam cao gấp mấy lần, nhưng giá của sách lại chỉ bằng một phần mấy, đã thế vẫn ít người mua, sách bán được ít tiền, người viết sách hay dịch sách đều chỉ nhận được rất ít thù lao, và do đó chất lượng của sách viết hay sách dịch cũng bị tồi tương xứng.

Trong khi đó, chỉ cần nhìn sang Trung Quốc và các nước láng giềng khác cũng đủ thấy những nơi khác họ coi trọng trí thức hơn như thế nào, trả công xứng đáng hơn cho những người hoạt động trí óc ra sao, và kết quả là họ phát triển nhanh hơn, trở nên văn minh hơn chúng ta như thế nào. Trong lần đi công tác ở Trung Quốc vào tháng 1/2016, tôi thật sự ấn tượng về sự tiến bộ, không chỉ về kinh tế, mà còn về văn hoá của họ. Người Trung Quốc vốn mang tiếng ở bẩn và ồn ào, nói oang oang, nhưng ở những quán tôi vào ăn ở Trung Quốc đầu năm 2016 lại thấy họ nói nhỏ nhẹ không khác gì phương Tây – những quán tôi vào ở Hà Nội cuối năm 2015 mới là oang oang. Còn về sự ở bẩn, lạ thay, các nơi công cộng ở những thành phố như Thiên Tân và Trường Xuân của Trung Quốc mà tôi đến dịp đầu năm vừa rồi lại rất sạch sẽ và an toàn. Sự tiến bộ trên của Trung Quốc chắc chắn gắn liền với sự coi trọng giáo dục và trí thức, là những yếu tố đã làm cho con người và xã hội trở nên văn minh hơn.

Theo truyền thống hiếu học và tôn trọng giáo viên vẫn được giữ cho đến ngày nay, các trí thức ở Trung Quốc còn được coi trọng hơn cả ở phương Tây. Đặc biệt, các giáo sư ở Trung Quốc có thu nhập cao hơn là bác sĩ hay luật sư. Ngay cả các giảng viên trẻ ở Trung Quốc mà tôi gặp cũng có thu nhập tốt, có tiền để đi công tác nước ngoài thoải mái, có xe hơi riêng, chứ không chật vật như ở Việt Nam. Một buổi tối, họ dẫn tôi vào một quán KTV (karaoke) lịch sự, và ở đó họ hát đủ các thứ nhạc Trung, Nga, Anh, v.v., một chi tiết nhỏ nhưng chứng tỏ họ rất có tinh thần hoà nhập với thế giới về văn hoá.

Vấn đề cải thiện giáo dục

Nước Pháp có tội xâm lược Việt Nam, nhưng có công truyền bá vào Việt Nam một nền giáo dục khai phóng. Chính vì được hưởng một nền giáo dục khai phóng nên Việt Nam có được một tầng lớp trí thức ưu tú vào đầu thế kỷ 20 tham gia vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chúng ta cần phát huy truyền thống giáo dục khai phóng này, đổi mới giáo dục theo hướng đó, thay vì giáo dục theo lối gò bó, hình thức, giáo điều.

Có một số tín hiệu tốt trong giáo dục của Việt Nam gần đây, xuất phát từ các nỗ lực của những trí thức không nằm trong “hệ thống giáo dục” rồi được Bộ Giáo dục chấp nhận và ủng hộ, như là chương trình “sách hóa trường học” của Nguyễn Quang Thạch (đông đảo học sinh sẽ có được văn hoá đọc, sẽ biết đến không chỉ sách giáo khoa mà còn chủ động đọc nhiều sách khác, tự nâng cao hiểu biết qua việc đọc sách) hay “liên minh STEM” (cách học sinh động tích hợp khoa học – công nghệ – kỹ thuật – toán học với nhiều thực hành thú vị) của nhiều nhóm tư nhân làm giáo dục (như là DTT, Long Minh, Sputnik Education, v.v.) hợp thành. Đây là những đóng góp quan trọng góp phần thay đổi nền giáo dục theo chiều hướng tích cực, sẽ góp phần nâng cao nền tảng văn hoá của Việt Nam, và hệ quả là tầng lớp trí thức tương lai nhờ đó mà mạnh lên.

Chúng ta có thể hy vọng rằng, với nền giáo dục trên thế giới ngày càng tốt lên, tầng lớp trí thức cũng sẽ ngày càng mạnh lên, và toàn thể thế giới sẽ ngày càng văn minh lên. Khi mức độ trí thức của xã hội càng cao lên, thì xã hội càng có nhiều yếu tố “xã hội chủ nghĩa” (giống như tiên đoán của Marx, hay của Schumpeter, hay của một số nhà triết học hay kinh tế khác, nhưng theo con đường và vì các lý do không hẳn giống như là Marx hay Schumpeter đưa ra). Như Einstein có nói, “thế giới này là của chung”. Những gì quan trọng nhất đều là “trời cho”, và tự do mưu cầu hạnh phúc không có nghĩa là vơ vét của chung thành của riêng, không có nghĩa là chiến tranh để tranh giành quyền lực. Một viễn tưởng “utopia” về một “xã hội đại đồng” cũng có thể đến một ngày nào đó khi mà toàn trái đất này sẽ đạt được mức độ trí thức đủ cao!

Tác giả

(Visited 37 times, 1 visits today)